Vì sao có sự nhầm lẫn truyền thuyết và lịch sử ?

  1. Kiến thức chung

Từ khóa: 

kiến thức chung

: Trả lời câu hỏi trên cũng tức là quay lại làm cuộc khảo sát, đối sánh, bắt đầu từ các khái niệm (truyền thuyết là gì? lịch sử là gì?) cho đến mối quan hệ (thời điểm ra đời, cách thức tồn tại; sự xâm nhập lẫn nhau giữa truyền thuyết và lịch sử...). Truyền thuyết là gì? Có nhiều cách phát biểu khác nhau, nhưng tựu trung,truyền thuyết là những tự sự dân gian có cái lõi lịch sử; màu sắc ít nhiều huyền ảo; nội dung kể về các nhân vật và sự kiện lịch sử theo quan điểm và tình cảm của nhân dân. Nói cách khác, truyền thuyết là những tự sự dân gian được kết tụ từ hai yếu tố: lịch sử và hư cấu. Truyền thuyết bao gồm nhiều nhóm: truyền thuyết lịch sử, truyền thuyết phổ hệ, truyền thuyết thần tổ ngành nghề, truyền thuyết địa danh… Trong đó, mang đậm yếu tố lịch sử và tiêu biểu cho đặc điểm thể loại chính là nhóm truyền thuyết lịch sử Còn Lịch sử là gì? Từ điển Tiếng Việt định nghĩa Lịch sử là: “Khoa học nghiên cứu về quá trình phát triển của xã hội loài người nói chung, hay của một quốc gia, một dân tộc nói riêng”. Tạm thời, chúng tôi chưa sử dụng định nghĩa này. Vì một khi đã trở thành khoa học, lịch sử tự mất đi không gian gần gũi, giao thoa với truyền thuyết. Nó đã nằm ngoài phạm vi khảo sát của bài viết. Chuyển sang những định nghĩa khác. N.A. Eârôphêep cho rằng: “Theo nghĩa rộng, lịch sử, nói chung, có nghĩa là bất cứ một sự mô tả nào (ví dụ: lịch sử động vật, lịch sử thực vật,…).Theo nghĩa hẹp, người ta quan niệm lịch sử là câu chuyện kể về những gì xảy ra trong quá khứ”. Nhấn mạnh phương thức tồn tại, Trần Quốc Vượng cho lịch sử là câu chuyện “kể lại những bước đi của con người, sự việc thực được ghi lại bằng chữ viết”. Chú trọng mục đích, chức năng của sử, các nhà soạn sách giáo khoa giải thích: “Sử là tác phẩm viết về các sự kiện và nhân vật lịch sử. Mục đích của sử là ghi chép sự thật, không hư cấu như văn nghệ thuật, nhằm cung cấp những sự kiện lịch sử của dân tộc và bày tỏ thái độ khen chê của sử gia đối với các nhân vật lịch sử để đời sau lấy đấy làm gương”. Cũng cần nói thêm, hình thức đầu tiên của những câu chuyện lịch sử là biên niên sử. Theo N.A. Eârôphêep, “Biên niên sử hoàn toàn có mục đích thực tiễn: lưu lại trong ký ức của nhân dân tất cả những gì lúc đó được coi là cốt yếu và quan trọng”. Sau biên niên là kỉ sự. Sách Ngữ văn 10 giải thích rõ hơn: “Sử xưa có hai thể: biên niên và kỉ sự. Biên niên là lối viết sử theo trình tự thời gian (Đại Việt sử lược, Đại Việt sử ký toàn thư…). Kỉ sự là lối viết sử theo các sự kiện hoặc theo từng sự việc của nhân vật lịch sử. Thể kỉ sự có ba tiểu loại: Bản kỉ (ghi chép về các vua), Liệt truyện (ghi chép về các bề tôi), Chí (ghi chép cả về vua và bề tôi)…”. Như vậy, chỉ xét khái niệm, truyền thuyết lịch sử và chuyện kể lịch sử đã có chỗ trùng hợp nhau: cùng là chuyện kể (thể tự sự), cùng kể về các sự kiện và nhân vật lịch sử (nội dung tác phẩm). Việc đồng nhất hay nhầm lẫn truyền thuyết và lịch sử thực ra không hoàn toàn do thiên kiến của người nghiên cứu. Nó chủ yếu xuất phát từ mối quan hệ nhập nhằng, phức tạp của chính hai địa hạt này. Hầu như ai cũng biết rằng truyền thuyết xuất hiện sớm hơn lịch sử. Trần Quốc Vượng từng diễn giải: “Khi chưa có khoa học và chữ viết thì lịch sử của dân tộc nào cũng mở đầu bằng truyền thuyết. Một khi đã có chữ viết, đã có khoa học, người ta không phải viện đến trí tưởng tượng nữa, khi cần kể lại những bước đi của con người, sự việc thực được ghi lại bằng chữ viết. Lịch sử tiếp tục truyền thuyết, không phải bằng tưởng tượng, mà bằng khoa học”. Có điều, trước khi thực sự trở thành khoa học, do trùng hợp về chức năng nên lịch sử gần như hòa trộn vào truyền thuyết: “Chính mối liên hệ của truyền thuyết với lịch sử được biểu hiện rất rõ trên chức năng của nó. Các hình thái khác nhau thuộc các chức năng lịch sử, triết học và xã hội đã hợp nhất vào trong truyền thuyết, làm cho truyền thuyết vận động theo lịch sử, đẻ ra nhiều dị bản”. Đâu chỉ vận động theo lịch sử, không ít truyền thuyết còn được chuyển thành chính sử. Ví dụ lịch sử thời Hồng Bàng: “Kinh Dương Vương, Lạc Long Quân, Âu Cơ đã từ truyền thuyết dân gian đi vào chính sử”. Mặt khác, truyền thuyết và lịch sử còn gắn chặt nhau lâu dài, nên sau khi được phân tách rồi, trong lòng thể loại này vẫn còn lưu giữ một vài đặc điểm, tố chất của thể loại kia. Truyền thuyết là thể loại văn học dân gian nhưng vẫn còn được gọi là sử dân gian, là dã sử. GS Ngô Đức Thịnh phát biểu: “Ở nước ta xưa kia vẫn tồn tại hai thứ lịch sử, một thứ lịch sử của người có học, tồn tại trên sách vở, văn tự ghi lại các triều đại, các chiến công, còn có một thứ lịch sử khác, của những người nông dân thất học, tồn tại qua các hồi ức lịch sử, được thể hiện trong truyền thuyết, cổ tích, qua đền miếu thờ cúng, qua lễ nghi, lễ hội…”. Trái lại, một số nhà sử học thời trung đại ở phương Tây lại xem “lịch sử là một loại hình nghệ thuật, như thơ ca, nhạc và nhảy múa” Họ cho Cliô (con gái của nữ thần trí nhớ Mô-nê-mô-đi-na) là nữ thần của lịch sử. A-ri-xtôt cũng khẳng định rằng “nhà sử học và nhà thơ chỉ khác nhau ở chỗ: nhà sử học nói về những gì có thực đã xảy ra, còn nhà thơ thì nói về những gì có thể xảy ra. Vì vậy thơ ca có tính chất triết học và chân xác hơn lịch sử”. Truyền thuyết là thể loại được quyền hư cấu nhưng bản thân câu chuyện luôn tạo được niềm tin, luôn gắn với niềm tin: “Cốt lõi của truyền thuyết thực sự là một đức tin”. Trong khi đó, lịch sử có chức năng ghi chép sự thật, phải tôn trọng sự thật, nhưng khởi thủy, lại dung nạp cả những điều bịa đặt. Nhà sử học thế kỷ XVI, Vi-pê-ra-nô, trong quyển “Sách dạy cách viết sử”, từng coi lịch sử như một “câu chuyện có lí và được tô vẽ thêm”. Do chuyện kể lịch sử thời ấy“đầy rẫy những điều bịa đặt” nên nhiều nhà sử học đã phải “kêu gọi đồng nghiệp của mình chỉ nói sự thật”. Giô-han Xôn-xbơ-ri cảnh báo: “Nhà sử học dối trá sẽ chôn vùi cả danh tiếng lẫn tâm hồn bất tử của mình. Ngay trong sử thời Hồng Bàng của ta dường như cũng có hiện tượng này. Đặng Văn Lung từng viết: “Theo chủ quan tôi suy luận ra, thì truyền thuyết cái bọc trăm trứng là của dân tộc, nhưng đoạn đầu nói Lạc Long Quân là con Lộc Tục, và Lộc Tục là con vua thần nông, một vị vua mở đầu lịch sử Trung Quốc, theo sử cũ, thì đó là do các sử gia phong kiến thêm thắt vào (…) Lại lối đặt tên như những tên: Hồng Bàng, Hùng Vương, Lộc Tục, Kinh Dương Vương, Thần Long, Lạc Long Quân, Âu Cơ v.v… cũng là do các sử gia ấy bịa ra, đến cả những tên An Dương Vương, Mị Châu, Trọng Thủy cũng vậy” Nếu như truyền thuyết lịch sử bắt buộc có sự hiện diện của yếu tố lịch sử thì ngược lại, trong một số chuyện kể lịch sử vẫn còn xuất hiện chi tiết hư cấu - yếu tố đặc trưng của truyền thuyết. Ví dụ, trong Đại Việt sử ký toàn thư, Ngô Sỹ Liên đã không bỏ qua những chi tiết kỳ diệu, hoang đường. Đây là đoạn ông kể thêm về Hưng Đạo Đại vương: “Sau khi ông mất rồi, các châu huyện ở Lạng Giang hễ có tai nạn, dịch bệnh, nhiều người cầu đảo ông. Đến nay, mỗi khi đất nước có giặc vào cướp, đến lễ ở đền ông, hễ tráp đựng kiếm có tiếng kêu thì thế nào cũng thắng lớn” Hình thức tồn tại bắt buộc của lịch sử là trên sách vở, thông qua việc ghi lại bằng chữ viết (nên mới có khái niệm sử quan, chép sử, sử sách, sử xanh…). Tất nhiên, lịch sử được ghi chép không có nghĩa nó buộc phải đoạn tuyệt con đường truyền miệng. Trong những dịp cúng tế, lễ hội, người ta vẫn có quyền trích đọc sách sử về công đức các anh hùng. Và mọi người, bằng tấm lòng thành kính, có thể tiếp tục truyền tụng cho nhau câu chuyện về nhân vật lịch sử ấy. Ngược lại, truyền thuyết là văn học truyền miệng nhưng hầu hết cũng được ghi chép vào sách vở. Trong quyển Folklore - một số thuật ngữ đương đại, có đoạn ghi: “Trải suốt lịch sử của nền văn minh phương Tây, truyền thuyết có rất nhiều trong các nguồn tài liệu chữ viết”. Còn Nguyễn Vũ Tuấn Anh, khi tóm lược quyển Thời hùng Vương qua truyền thuyết và huyền thoại (Hà Nội: Văn hóa thông tin), đã nhận xét: “Nhu cầu nhận thức về nguồn gốc và ý thức tự tôn dân tộc đã thôi thúc các nhà sử học yêu nước tìm hiểu về lịch sử thời Hùng Vương. Đến thời Trần - Lê, những truyền thuyết và huyền thoại bấy lâu chỉ lưu truyền trong dân gian lần đầu tiên được sưu tầm, biên khảo và ghi chép lại trong các tài liệu thành văn”. Đặng Văn Lung cũng chú ý điều này: “Mị Châu – Trọng Thủy là truyền thuyết được ghi chép rất sớm và được ghi nhiều lần, ở nhiều thời điểm lịch sử khác nhau”. Vì vậy, ai đó lấy tiêu chí truyền miệng hay thành văn để phân biệt truyền thuyết và lịch sử sẽ là điều nan giải.
Trả lời
: Trả lời câu hỏi trên cũng tức là quay lại làm cuộc khảo sát, đối sánh, bắt đầu từ các khái niệm (truyền thuyết là gì? lịch sử là gì?) cho đến mối quan hệ (thời điểm ra đời, cách thức tồn tại; sự xâm nhập lẫn nhau giữa truyền thuyết và lịch sử...). Truyền thuyết là gì? Có nhiều cách phát biểu khác nhau, nhưng tựu trung,truyền thuyết là những tự sự dân gian có cái lõi lịch sử; màu sắc ít nhiều huyền ảo; nội dung kể về các nhân vật và sự kiện lịch sử theo quan điểm và tình cảm của nhân dân. Nói cách khác, truyền thuyết là những tự sự dân gian được kết tụ từ hai yếu tố: lịch sử và hư cấu. Truyền thuyết bao gồm nhiều nhóm: truyền thuyết lịch sử, truyền thuyết phổ hệ, truyền thuyết thần tổ ngành nghề, truyền thuyết địa danh… Trong đó, mang đậm yếu tố lịch sử và tiêu biểu cho đặc điểm thể loại chính là nhóm truyền thuyết lịch sử Còn Lịch sử là gì? Từ điển Tiếng Việt định nghĩa Lịch sử là: “Khoa học nghiên cứu về quá trình phát triển của xã hội loài người nói chung, hay của một quốc gia, một dân tộc nói riêng”. Tạm thời, chúng tôi chưa sử dụng định nghĩa này. Vì một khi đã trở thành khoa học, lịch sử tự mất đi không gian gần gũi, giao thoa với truyền thuyết. Nó đã nằm ngoài phạm vi khảo sát của bài viết. Chuyển sang những định nghĩa khác. N.A. Eârôphêep cho rằng: “Theo nghĩa rộng, lịch sử, nói chung, có nghĩa là bất cứ một sự mô tả nào (ví dụ: lịch sử động vật, lịch sử thực vật,…).Theo nghĩa hẹp, người ta quan niệm lịch sử là câu chuyện kể về những gì xảy ra trong quá khứ”. Nhấn mạnh phương thức tồn tại, Trần Quốc Vượng cho lịch sử là câu chuyện “kể lại những bước đi của con người, sự việc thực được ghi lại bằng chữ viết”. Chú trọng mục đích, chức năng của sử, các nhà soạn sách giáo khoa giải thích: “Sử là tác phẩm viết về các sự kiện và nhân vật lịch sử. Mục đích của sử là ghi chép sự thật, không hư cấu như văn nghệ thuật, nhằm cung cấp những sự kiện lịch sử của dân tộc và bày tỏ thái độ khen chê của sử gia đối với các nhân vật lịch sử để đời sau lấy đấy làm gương”. Cũng cần nói thêm, hình thức đầu tiên của những câu chuyện lịch sử là biên niên sử. Theo N.A. Eârôphêep, “Biên niên sử hoàn toàn có mục đích thực tiễn: lưu lại trong ký ức của nhân dân tất cả những gì lúc đó được coi là cốt yếu và quan trọng”. Sau biên niên là kỉ sự. Sách Ngữ văn 10 giải thích rõ hơn: “Sử xưa có hai thể: biên niên và kỉ sự. Biên niên là lối viết sử theo trình tự thời gian (Đại Việt sử lược, Đại Việt sử ký toàn thư…). Kỉ sự là lối viết sử theo các sự kiện hoặc theo từng sự việc của nhân vật lịch sử. Thể kỉ sự có ba tiểu loại: Bản kỉ (ghi chép về các vua), Liệt truyện (ghi chép về các bề tôi), Chí (ghi chép cả về vua và bề tôi)…”. Như vậy, chỉ xét khái niệm, truyền thuyết lịch sử và chuyện kể lịch sử đã có chỗ trùng hợp nhau: cùng là chuyện kể (thể tự sự), cùng kể về các sự kiện và nhân vật lịch sử (nội dung tác phẩm). Việc đồng nhất hay nhầm lẫn truyền thuyết và lịch sử thực ra không hoàn toàn do thiên kiến của người nghiên cứu. Nó chủ yếu xuất phát từ mối quan hệ nhập nhằng, phức tạp của chính hai địa hạt này. Hầu như ai cũng biết rằng truyền thuyết xuất hiện sớm hơn lịch sử. Trần Quốc Vượng từng diễn giải: “Khi chưa có khoa học và chữ viết thì lịch sử của dân tộc nào cũng mở đầu bằng truyền thuyết. Một khi đã có chữ viết, đã có khoa học, người ta không phải viện đến trí tưởng tượng nữa, khi cần kể lại những bước đi của con người, sự việc thực được ghi lại bằng chữ viết. Lịch sử tiếp tục truyền thuyết, không phải bằng tưởng tượng, mà bằng khoa học”. Có điều, trước khi thực sự trở thành khoa học, do trùng hợp về chức năng nên lịch sử gần như hòa trộn vào truyền thuyết: “Chính mối liên hệ của truyền thuyết với lịch sử được biểu hiện rất rõ trên chức năng của nó. Các hình thái khác nhau thuộc các chức năng lịch sử, triết học và xã hội đã hợp nhất vào trong truyền thuyết, làm cho truyền thuyết vận động theo lịch sử, đẻ ra nhiều dị bản”. Đâu chỉ vận động theo lịch sử, không ít truyền thuyết còn được chuyển thành chính sử. Ví dụ lịch sử thời Hồng Bàng: “Kinh Dương Vương, Lạc Long Quân, Âu Cơ đã từ truyền thuyết dân gian đi vào chính sử”. Mặt khác, truyền thuyết và lịch sử còn gắn chặt nhau lâu dài, nên sau khi được phân tách rồi, trong lòng thể loại này vẫn còn lưu giữ một vài đặc điểm, tố chất của thể loại kia. Truyền thuyết là thể loại văn học dân gian nhưng vẫn còn được gọi là sử dân gian, là dã sử. GS Ngô Đức Thịnh phát biểu: “Ở nước ta xưa kia vẫn tồn tại hai thứ lịch sử, một thứ lịch sử của người có học, tồn tại trên sách vở, văn tự ghi lại các triều đại, các chiến công, còn có một thứ lịch sử khác, của những người nông dân thất học, tồn tại qua các hồi ức lịch sử, được thể hiện trong truyền thuyết, cổ tích, qua đền miếu thờ cúng, qua lễ nghi, lễ hội…”. Trái lại, một số nhà sử học thời trung đại ở phương Tây lại xem “lịch sử là một loại hình nghệ thuật, như thơ ca, nhạc và nhảy múa” Họ cho Cliô (con gái của nữ thần trí nhớ Mô-nê-mô-đi-na) là nữ thần của lịch sử. A-ri-xtôt cũng khẳng định rằng “nhà sử học và nhà thơ chỉ khác nhau ở chỗ: nhà sử học nói về những gì có thực đã xảy ra, còn nhà thơ thì nói về những gì có thể xảy ra. Vì vậy thơ ca có tính chất triết học và chân xác hơn lịch sử”. Truyền thuyết là thể loại được quyền hư cấu nhưng bản thân câu chuyện luôn tạo được niềm tin, luôn gắn với niềm tin: “Cốt lõi của truyền thuyết thực sự là một đức tin”. Trong khi đó, lịch sử có chức năng ghi chép sự thật, phải tôn trọng sự thật, nhưng khởi thủy, lại dung nạp cả những điều bịa đặt. Nhà sử học thế kỷ XVI, Vi-pê-ra-nô, trong quyển “Sách dạy cách viết sử”, từng coi lịch sử như một “câu chuyện có lí và được tô vẽ thêm”. Do chuyện kể lịch sử thời ấy“đầy rẫy những điều bịa đặt” nên nhiều nhà sử học đã phải “kêu gọi đồng nghiệp của mình chỉ nói sự thật”. Giô-han Xôn-xbơ-ri cảnh báo: “Nhà sử học dối trá sẽ chôn vùi cả danh tiếng lẫn tâm hồn bất tử của mình. Ngay trong sử thời Hồng Bàng của ta dường như cũng có hiện tượng này. Đặng Văn Lung từng viết: “Theo chủ quan tôi suy luận ra, thì truyền thuyết cái bọc trăm trứng là của dân tộc, nhưng đoạn đầu nói Lạc Long Quân là con Lộc Tục, và Lộc Tục là con vua thần nông, một vị vua mở đầu lịch sử Trung Quốc, theo sử cũ, thì đó là do các sử gia phong kiến thêm thắt vào (…) Lại lối đặt tên như những tên: Hồng Bàng, Hùng Vương, Lộc Tục, Kinh Dương Vương, Thần Long, Lạc Long Quân, Âu Cơ v.v… cũng là do các sử gia ấy bịa ra, đến cả những tên An Dương Vương, Mị Châu, Trọng Thủy cũng vậy” Nếu như truyền thuyết lịch sử bắt buộc có sự hiện diện của yếu tố lịch sử thì ngược lại, trong một số chuyện kể lịch sử vẫn còn xuất hiện chi tiết hư cấu - yếu tố đặc trưng của truyền thuyết. Ví dụ, trong Đại Việt sử ký toàn thư, Ngô Sỹ Liên đã không bỏ qua những chi tiết kỳ diệu, hoang đường. Đây là đoạn ông kể thêm về Hưng Đạo Đại vương: “Sau khi ông mất rồi, các châu huyện ở Lạng Giang hễ có tai nạn, dịch bệnh, nhiều người cầu đảo ông. Đến nay, mỗi khi đất nước có giặc vào cướp, đến lễ ở đền ông, hễ tráp đựng kiếm có tiếng kêu thì thế nào cũng thắng lớn” Hình thức tồn tại bắt buộc của lịch sử là trên sách vở, thông qua việc ghi lại bằng chữ viết (nên mới có khái niệm sử quan, chép sử, sử sách, sử xanh…). Tất nhiên, lịch sử được ghi chép không có nghĩa nó buộc phải đoạn tuyệt con đường truyền miệng. Trong những dịp cúng tế, lễ hội, người ta vẫn có quyền trích đọc sách sử về công đức các anh hùng. Và mọi người, bằng tấm lòng thành kính, có thể tiếp tục truyền tụng cho nhau câu chuyện về nhân vật lịch sử ấy. Ngược lại, truyền thuyết là văn học truyền miệng nhưng hầu hết cũng được ghi chép vào sách vở. Trong quyển Folklore - một số thuật ngữ đương đại, có đoạn ghi: “Trải suốt lịch sử của nền văn minh phương Tây, truyền thuyết có rất nhiều trong các nguồn tài liệu chữ viết”. Còn Nguyễn Vũ Tuấn Anh, khi tóm lược quyển Thời hùng Vương qua truyền thuyết và huyền thoại (Hà Nội: Văn hóa thông tin), đã nhận xét: “Nhu cầu nhận thức về nguồn gốc và ý thức tự tôn dân tộc đã thôi thúc các nhà sử học yêu nước tìm hiểu về lịch sử thời Hùng Vương. Đến thời Trần - Lê, những truyền thuyết và huyền thoại bấy lâu chỉ lưu truyền trong dân gian lần đầu tiên được sưu tầm, biên khảo và ghi chép lại trong các tài liệu thành văn”. Đặng Văn Lung cũng chú ý điều này: “Mị Châu – Trọng Thủy là truyền thuyết được ghi chép rất sớm và được ghi nhiều lần, ở nhiều thời điểm lịch sử khác nhau”. Vì vậy, ai đó lấy tiêu chí truyền miệng hay thành văn để phân biệt truyền thuyết và lịch sử sẽ là điều nan giải.