Nguồn tài chính duy trì chùa Phật giáo ở Trung Quốc hiện nay ra sao?

  1. Kiến thức chung

Từ khóa: 

kiến thức chung

Chùa là kiến trúc Phật giáo tiêu biểu ở các nước phương Đông nói chung và các nước Đông Bắc Á nói riêng. Chùa là cơ sở hoạt động và truyền bá Phật giáo, là nơi tập trung sinh hoạt, tu hành và thuyết giảng đạo Phật của các nhà sư, tăng, ni, đồng thời cũng là nơi thờ phụng tĩnh lặng, linh thiêng mà mọi người đến để nương nhờ Đức Phật tìm chút bình an trong cuộc sống, cầu xin hạnh phúc cho gia đình. Ở mỗi quốc gia khác nhau, chùa Phật giáo lại có những đặc điểm khác nhau. Bài viết dưới đây so sánh sự khác biệt rõ rệt giữa hình thức sở hữu và nguồn kinh tế tài chính duy trì sự tồn tại của chùa của hai quốc gia có sự ảnh hưởng lớn từ Phật Giáo ở Đông Bắc Á là Trung Quốc và Nhật Bản. Đối với Trung Quốc, chùa Phật giáo chịu sự quản lí của Tổng Hội Phật giáo Trung Quốc đặt dưới sự kiểm soát của Văn phòng Cục Tôn giáo - cơ quan chính quyền của Đảng Cộng Sản. Văn Phòng Cục Tôn Giáo giám sát việc lập danh sách và quản lý các người tu hành cũng như các nơi thờ phụng. Theo truyền thống, các chùa ở Trung Quốc có thu nhập từ bốn nguồn chính : cho thuê đất; cho thuê nhà và các bất động sản mà chùa viện sở hữu; những thu nhập từ việc đáp ứng các nghi lễ tôn giáo và từ các lễ hội, cũng như thuyết pháp và những phục vụ tôn giáo khác; cúng dường từ tín đồ. Trong đó nguồn lợi từ đất đai là quan trọng nhất. Tuy nhiên, trong suốt thời kỳ cải cách ruộng đất của Đảng Cộng sản vào những năm thập niên 50 thế kỷ trước, đất đai do các chùa viện sở hữu đã bị nhà nước chiếm dụng và chỉ được hoàn trả một ít trong số đó vào đầu thập niên 80. Điều này có nghĩa rằng việc các chùa viện thu lợi trực tiếp từ những tài sản thực tế của họ hiện nay rất giới hạn. Thêm nữa, sự tác động trong một thời gian dài của chính sách vô thần đã làm những sinh hoạt Phật giáo tại gia suy yếu, rất ít người công khai thừa nhận họ là Phật tử. Thu nhập từ những công việc như đáp ứng nghi lễ và thuyết pháp cũng vì đó mà hạn chế ít nhiều. Giới tăng sĩ ở Trung Quốc cũng bị cấm ra đường khất thực. Ngày nay, các Phật tử được quản lý những khu nhà và được phép thực hiện các dịch vụ nhưng họ hầu như không có tiền để triển khai những thứ họ có. Do đó ưu tiên cấp bất đối với hầu hết các chùa viện là tìm mọi cách tạo nguồn thu nhập. Các chùa viện đang cố gắng tự lập về mặt kinh tế và để giảm thiểu sự phụ thuộc vào sự kiểm soát của nhà nước. Tình trạng tài chính của 15000 chùa chiền nằm trong danh sách chính thức hoàn toàn khác nhau. Các ngôi chùa ở những nơi du lịch hoặc trung tâm các thành phố lớn thường có những nguồn tài chính lớn hơn so với những ngôi chùa nhỏ ở các vùng hẻo lánh. Với các ngôi chùa lớn và nổi tiếng, tiền cúng dường là nguồn tài chính quan trọng nhất, chẳng hạn như ngôi chùa Lingyin ở Hàng Châu (Hangzhou), hay các ngôi chùa trong vùng núi Wutai ở Sơn Tây (Shanxi) . Một ngôi chùa lớn ở Thượng Hải là một thí dụ điển hình: trong hai tuần lễ liền vào dịp Tết Nguyên Đán, ngôi chùa này thu được 10 triệu nhân dân tệ tiền cúng dường (hơn một triệu euros). Hầu hết các chùa lớn đều có một vị thầy nổi tiếng, và các chùa này sống nhờ vào tiền cúng dường của các đệ tử. Ngoài ra một số chùa còn có thêm một nguồn lợi tức khác nữa mang lại bằng cách tổ chức các nghi lễ (cầu siêu, cầu an. . . ), đảm trách việc cúng dường, nhất là nhờ các dịp ma chay. Du lịch và vé vào cửa có thể là một nguồn thu nhập đối với các chùa không được nhiều người biết đến, hoặc không có các vị thầy nổi tiếng trụ trì. Hiện tại, hầu hết các chùa viện tọa lạc ở những thành phố lớn và những địa điểm du lịch chính đã trở thành những trung tâm dành cho các hoạt động du lịch. Một số ví dụ điển hình như Chùa Pháp Nguyên (法源寺) ở Bắc Kinh, có lợi thế một ngàn năm lịch sử, chùa Bao Công (包公寺) ở Tứ Xuyên và Cung điện Potala ở Tây Tạng, sở hữu bộ sưu tập đồ sộ về những vật thể lịch sử quý giá hay những ngôi chùa toạ lạc trên Núi Nga My (峨嵋山), thừa hưởng được phong cảnh tuyệt vời mà lôi cuốn hàng triệu khách du lịch mỗi năm. Bên cạnh đó còn có những ngôi chùa tổ khác đã từng đóng vai trò quan trọng trong lịch sử Phật giáo – ví dụ như chùa Tê/Thê Hà (栖霞寺) ở Nam Kinh, ngôi tổ đường của Tam Luận tông. Ngôi chùa Thiếu Lâm ở Hà Nam (Henan), nổi tiếng nhờ vào truyền thống lâu đời về võ thuật. Ngôi chùa này sống nhờ vào du lịch, các Phật tử không cúng dường nhiều vì họ cho rằng chùa tận dụng quá đáng các hình thức buôn bán và các phương tiện truyền thông. Mỗi năm nhờ vào tiền bán vé chùa thu vào hàng nhiều triệu euros. Tất cả những chùa viện này đều nổi tiếng thế giới và cuốn hút một lượng du khách đáng kể, cũng là những địa điểm tôn giáo quan trọng. Nhiều chùa viện tự mở cửa đón du khách với tư cách là những địa điểm du lịch Phật giáo để tạo nên nguồn thu nhập và để hỗ trợ phát triển kinh tế địa phương. Tuy nhiên, song song với việc gia tăng lượng khách du lịch, các ngôi chùa đã bắt đầu lệ thuộc vào các dịch vụ kinh tế bao gồm mở các nhà hàng chay, xây dựng các toà nhà trưng bày, cửa hàng lưu niệm, trà quán, quầy thực phẩm, tiệm chụp hình, và thậm chí khách sạn. Kết quả là, thu nhập của các chùa viện đã gia tăng đều đặn mỗi năm từ khi những chính sách về tự do kinh tế và tôn giáo được thực thi. Ví dụ, vào năm 1985, chùa Tây Viên (西園寺) ở Tô Châu đã kiếm được hơn một triệu Nhân dân tệ từ những hoạt động kinh tế của nó, mà nó bao gồm nhà hàng chay, các quầy bán nhang đèn, và một cửa hàng lưu niệm. Một trường hợp khác, tổng thu nhập của tu viện trên Cửu Hoa Sơn (九華山) ở tỉnh An Huy tăng từ dưới 100 ngàn Nhân dân tệ vào năm 1979 lên đến gần 10 triệu. Nhân dân tệ vào năm 1992 (Thông tin từ Hội Phật giáo Trung Quốc, 2003). Các chùa viện ở những khu vực xa xôi cũng tham gia vào công việc kiếm tiền như trồng cây, trồng rừng, in ấn và bán kinh sách, làm vườn, thành lập những phòng khám chữa bệnh, những cửa hàng tạp hoá, điều hành dịch vụ vận tải cùng các loại dịch vụ khác. Lấy ví dụ chùa Trung Hoa (中华 寺) ở Tỉnh Phúc Kiến, một ngôi chùa nhỏ với khoảng 50 vị tăng. Khởi đầu vào năm 1981, nó cho thuê ba ngàn mẫu đất cho việc trồng trọt, trong số đó 9 mẫu dành trồng ngũ cốc, 120 mẫu dành cho trồng cây, 6 mẫu trồng trà, và số còn lại trồng cây ăn trái. Đến năm 1985 nó thu vào một nguồn lợi tức bao gồm 7, 500 kg ngũ cốc, 300 kg trà, và 15, 000 kg trái cây. Sau đó nó mở rộng thêm những hoạt động khác, bao gồm một phân xưởng may mặc, cửa hiệu, phòng khám chữa bệnh và một nhà máy gạch. Trong vòng một vài năm, chùa đã đạt được doanh thu lớn. Nhờ đó nó xây được một Pháp đường (法堂) lớn, một bãi đậu xe, một phòng đọc kinh và các tăng phòng, mà tất cả đều được trang bị hệ thống điện nước đầy đủ (Thông tin từ Hội Phật giáo Trung Quốc, 1993). Các xí nghiệp hợp doanh với chính quyền địa phương trong các dự án xây cất chùa chiền ở các nơi du lịch thì thường sau đó phải thuê các nhà sư đảm trách cho việc lễ lạc. Các xí nghiệp kinh doanh trong ngành du lịch hễ thấy nơi nào có di tích văn hóa - chẳng hạn như có chùa chiền - thì xem đấy là một nơi có nhiều lợi điểm và sẵn sàng đầu tư vào các nơi này. Nhiều trường hợp xảy ra thật hết sức ngoạn mục, chẳng hạn như ngôi chùa Nanshan (Nam Sơn) ở Hải Nam (Hainan). Ngược lại các công trình xây dựng các pho tượng Phật khổng lồ thường thấy tổ chức khắp nơi chỉ nhờ vào các đóng góp tư nhân. Các công trình này không cần đến ngay cả sự kêu gọi cúng dường của các vị tu hành. Sự phát triển kinh tế nhanh chóng đã giúp cho các chùa viện không chỉ trở nên tự lập về mặt kinh tế, mà cũng khởi đầu cho những đề án phúc lợi xã hội ở một phạm vi rộng lớn. Ví dụ, các chùa viện ở tỉnh Quảng Đông đã chi hơn 118 triệu Nhân dân tệ cho hoạt động phúc lợi xã hội giữa các năm 1993-2002. Nổi bật trong số các chùa viện, chùa Nam Phổ Đà (南普陀寺) ở Hạ Môn đã đóng góp một khoản tiền đồ sộ 17, 426, 315 Nhân dân tệ cho những người nghèo khó giữa các năm 1994-2002 (Thông tin từ Hội Phật giáo Trung Quốc, 1993). Sự phát đạt và tương đối độc lập kinh tế của các tự viện đã đóng góp nhiều cho sự phát triển của họ trên một phần tư thế kỷ qua. Tự lập kinh tế đã cải tiến đời sống tăng lữ, giúp trùng tu các chùa viện và đóng góp phúc lợi chung cho xã hội Trung Quốc. Tuy nhiên, việc trở nên giàu có cũng mang theo nó những nguy cơ mà chúng thách thức chính sự tồn vong của Phật giáo Trung Quốc. Một số chùa chiền được xem như là những địa điểm du lịch hấp dẫn , những cỗ máy làm tiền. Chùa chiền được điều hành vì mục đích kinh tế, gây nên những khó khăn cho các Phật tử thăm viếng vì nhu cầu tâm linh thực sự. Sự phát triển kinh tế thiên lệch trong nhiều chùa viện đã khiến chúng đánh mất đi những đặc tính Phật giáo vốn có. Các du khách nhận thấy rằng cho dù chùa viện được phát triển nhanh chóng, ở đó lại thiếu đi nét đặc biệt. Sự tác động lâu dài của kinh tế thị trường đang làm tổn hại nghiêm trọng bản chất tôn giáo của các chùa viện. Một khi các chùa viện trở thành các cơ sở kinh doanh ở quy mô lớn, thì rất khó cho họ rút ra khỏi những hoạt động kinh doanh đó. Và khi các chùa viện trở thành nơi dành cho du lịch, nhiệm vụ của các tăng ni nghiễm nhiên trở thành công việc tiếp đón du khách, không còn thời gian dành cho Tăng đoàn hay để tu tập. Phương Lập Thiên (方立天) đã nhận xét: “Thứ nhất, mỗi khi các tăng ni đã tham gia vào những hoạt động kinh tế, điều này sẽ đưa đến những thay đổi khách quan lối sống của họ. Thứ hai, những khoá tu học Phật pháp đã suy giảm ở mức độ lớn và thường xuyên. Ví dụ, ở các chùa Tây Tạng, ở đó từng có hơn 30 sinh hoạt tu học mỗi năm, và mỗi lần kéo dài vào khoảng 7 ngày, thì bây giờ những sinh hoạt tu học đã bị giảm xuống còn vào khoảng hai hoặc ba lần mỗi năm, mỗi lần kéo dài 5 ngày. Cải tổ kinh tế ở Trung Quốc cũng tạo nên một tình huống tương tự đối với các Phật tửtại gia. Bận rộn với sản xuất kinh tế và thương mại, các Phật tử tại gia không còn thời gian tham gia vào những sinh hoạt Phật giáo và rồi niềm tin vào đạo trở nên rất mỏng. ” Ngoài ra cũng có những người Phật Giáo tự thành lập các khu du lịch nhằm góp phần phát triển kinh tế địa phương. Trong trường hợp này có thể nêu lên một thí dụ điển hình là ngôi chùa Li Li Gucheng ở tỉnh Cam Túc (Gansu). Một Phật tử nhờ tiền cúng dường đã xây dựng được một khu du lịch thật đồ sộ theo kiến trúc La Mã, và trong khu du lịch này nhiều toà nhà được dành riêng cho việc thiền định. 70% thu nhập của chùa Thiếu Lâm lọt vào ngân quỹ chính quyền địa phương, phần của chùa chỉ còn 30%, hơn nữa việc chi tiêu 30% ấy còn phải đặt dưới sự kiểm soát của một kế toán viên do chính quyền địa phương cử đến. Trước đây vị trụ trì chùa Thiếu Lâm là Shi Yongxin đã nhiều lần xin phép chính quyền địa phương cho tín đồ và các người du lịch đến viếng chùa miễn phí nhưng không được chấp thuận, lý do là có sự tranh giành quyền lợi về tài chính giữa chính quyền địa phương và chùa, và hơn nữa chính quyền địa phương cũng không muốn sự kiện ấy có thể làm lu mờ uy thế của mình nơi địa phương. Vấn đề nghiêm trọng nhất chính là mục đích xuất gia của các tăng ni trong thực hiện cúng đám để kiếm tiền. Ở một vài nơi, người ta gửi con cái vào chùa vì mục đích duy nhất là để học nghi lễ như một thứ kĩ năng kiếm tiền. Một số tăng sĩ trẻ xem việc nghiên cứu Phật học là hoang phí thời gian, trong khi xem việc học nghi lễ để cúng đám là thực tiễn. Điều này góp phần giải thích thêm cho vấn đề thiếu nhân lực đang tồn tại trong Phật giáo hiện nay. Việc quá nhấn mạnh vào phát triển kinh tế của các chùa viện đã tác động mạnh mẽ vào Phật giáo Trung Quốc. Một mặt, nó đã cải tiến được cơ sở hạ tầng và thu nhập cho các chùa viện, cũng như gia tăng vị trí xã hội và giá trị của Tăng đoàn. Nhưng mặt khác, nó gây nên một sự suy thoái ở trong chính Phật giáo bởi vì đã đưa chùa viện ra xa những thực hành Phật giáo, và hướng chúng đến công việc kinh doanh kiếm tiền thế tục. Đây là một thách thức nghiêm trọng mà các Phật tử Trung Quốc hiện nay đang đối mặt.
Trả lời
Chùa là kiến trúc Phật giáo tiêu biểu ở các nước phương Đông nói chung và các nước Đông Bắc Á nói riêng. Chùa là cơ sở hoạt động và truyền bá Phật giáo, là nơi tập trung sinh hoạt, tu hành và thuyết giảng đạo Phật của các nhà sư, tăng, ni, đồng thời cũng là nơi thờ phụng tĩnh lặng, linh thiêng mà mọi người đến để nương nhờ Đức Phật tìm chút bình an trong cuộc sống, cầu xin hạnh phúc cho gia đình. Ở mỗi quốc gia khác nhau, chùa Phật giáo lại có những đặc điểm khác nhau. Bài viết dưới đây so sánh sự khác biệt rõ rệt giữa hình thức sở hữu và nguồn kinh tế tài chính duy trì sự tồn tại của chùa của hai quốc gia có sự ảnh hưởng lớn từ Phật Giáo ở Đông Bắc Á là Trung Quốc và Nhật Bản. Đối với Trung Quốc, chùa Phật giáo chịu sự quản lí của Tổng Hội Phật giáo Trung Quốc đặt dưới sự kiểm soát của Văn phòng Cục Tôn giáo - cơ quan chính quyền của Đảng Cộng Sản. Văn Phòng Cục Tôn Giáo giám sát việc lập danh sách và quản lý các người tu hành cũng như các nơi thờ phụng. Theo truyền thống, các chùa ở Trung Quốc có thu nhập từ bốn nguồn chính : cho thuê đất; cho thuê nhà và các bất động sản mà chùa viện sở hữu; những thu nhập từ việc đáp ứng các nghi lễ tôn giáo và từ các lễ hội, cũng như thuyết pháp và những phục vụ tôn giáo khác; cúng dường từ tín đồ. Trong đó nguồn lợi từ đất đai là quan trọng nhất. Tuy nhiên, trong suốt thời kỳ cải cách ruộng đất của Đảng Cộng sản vào những năm thập niên 50 thế kỷ trước, đất đai do các chùa viện sở hữu đã bị nhà nước chiếm dụng và chỉ được hoàn trả một ít trong số đó vào đầu thập niên 80. Điều này có nghĩa rằng việc các chùa viện thu lợi trực tiếp từ những tài sản thực tế của họ hiện nay rất giới hạn. Thêm nữa, sự tác động trong một thời gian dài của chính sách vô thần đã làm những sinh hoạt Phật giáo tại gia suy yếu, rất ít người công khai thừa nhận họ là Phật tử. Thu nhập từ những công việc như đáp ứng nghi lễ và thuyết pháp cũng vì đó mà hạn chế ít nhiều. Giới tăng sĩ ở Trung Quốc cũng bị cấm ra đường khất thực. Ngày nay, các Phật tử được quản lý những khu nhà và được phép thực hiện các dịch vụ nhưng họ hầu như không có tiền để triển khai những thứ họ có. Do đó ưu tiên cấp bất đối với hầu hết các chùa viện là tìm mọi cách tạo nguồn thu nhập. Các chùa viện đang cố gắng tự lập về mặt kinh tế và để giảm thiểu sự phụ thuộc vào sự kiểm soát của nhà nước. Tình trạng tài chính của 15000 chùa chiền nằm trong danh sách chính thức hoàn toàn khác nhau. Các ngôi chùa ở những nơi du lịch hoặc trung tâm các thành phố lớn thường có những nguồn tài chính lớn hơn so với những ngôi chùa nhỏ ở các vùng hẻo lánh. Với các ngôi chùa lớn và nổi tiếng, tiền cúng dường là nguồn tài chính quan trọng nhất, chẳng hạn như ngôi chùa Lingyin ở Hàng Châu (Hangzhou), hay các ngôi chùa trong vùng núi Wutai ở Sơn Tây (Shanxi) . Một ngôi chùa lớn ở Thượng Hải là một thí dụ điển hình: trong hai tuần lễ liền vào dịp Tết Nguyên Đán, ngôi chùa này thu được 10 triệu nhân dân tệ tiền cúng dường (hơn một triệu euros). Hầu hết các chùa lớn đều có một vị thầy nổi tiếng, và các chùa này sống nhờ vào tiền cúng dường của các đệ tử. Ngoài ra một số chùa còn có thêm một nguồn lợi tức khác nữa mang lại bằng cách tổ chức các nghi lễ (cầu siêu, cầu an. . . ), đảm trách việc cúng dường, nhất là nhờ các dịp ma chay. Du lịch và vé vào cửa có thể là một nguồn thu nhập đối với các chùa không được nhiều người biết đến, hoặc không có các vị thầy nổi tiếng trụ trì. Hiện tại, hầu hết các chùa viện tọa lạc ở những thành phố lớn và những địa điểm du lịch chính đã trở thành những trung tâm dành cho các hoạt động du lịch. Một số ví dụ điển hình như Chùa Pháp Nguyên (法源寺) ở Bắc Kinh, có lợi thế một ngàn năm lịch sử, chùa Bao Công (包公寺) ở Tứ Xuyên và Cung điện Potala ở Tây Tạng, sở hữu bộ sưu tập đồ sộ về những vật thể lịch sử quý giá hay những ngôi chùa toạ lạc trên Núi Nga My (峨嵋山), thừa hưởng được phong cảnh tuyệt vời mà lôi cuốn hàng triệu khách du lịch mỗi năm. Bên cạnh đó còn có những ngôi chùa tổ khác đã từng đóng vai trò quan trọng trong lịch sử Phật giáo – ví dụ như chùa Tê/Thê Hà (栖霞寺) ở Nam Kinh, ngôi tổ đường của Tam Luận tông. Ngôi chùa Thiếu Lâm ở Hà Nam (Henan), nổi tiếng nhờ vào truyền thống lâu đời về võ thuật. Ngôi chùa này sống nhờ vào du lịch, các Phật tử không cúng dường nhiều vì họ cho rằng chùa tận dụng quá đáng các hình thức buôn bán và các phương tiện truyền thông. Mỗi năm nhờ vào tiền bán vé chùa thu vào hàng nhiều triệu euros. Tất cả những chùa viện này đều nổi tiếng thế giới và cuốn hút một lượng du khách đáng kể, cũng là những địa điểm tôn giáo quan trọng. Nhiều chùa viện tự mở cửa đón du khách với tư cách là những địa điểm du lịch Phật giáo để tạo nên nguồn thu nhập và để hỗ trợ phát triển kinh tế địa phương. Tuy nhiên, song song với việc gia tăng lượng khách du lịch, các ngôi chùa đã bắt đầu lệ thuộc vào các dịch vụ kinh tế bao gồm mở các nhà hàng chay, xây dựng các toà nhà trưng bày, cửa hàng lưu niệm, trà quán, quầy thực phẩm, tiệm chụp hình, và thậm chí khách sạn. Kết quả là, thu nhập của các chùa viện đã gia tăng đều đặn mỗi năm từ khi những chính sách về tự do kinh tế và tôn giáo được thực thi. Ví dụ, vào năm 1985, chùa Tây Viên (西園寺) ở Tô Châu đã kiếm được hơn một triệu Nhân dân tệ từ những hoạt động kinh tế của nó, mà nó bao gồm nhà hàng chay, các quầy bán nhang đèn, và một cửa hàng lưu niệm. Một trường hợp khác, tổng thu nhập của tu viện trên Cửu Hoa Sơn (九華山) ở tỉnh An Huy tăng từ dưới 100 ngàn Nhân dân tệ vào năm 1979 lên đến gần 10 triệu. Nhân dân tệ vào năm 1992 (Thông tin từ Hội Phật giáo Trung Quốc, 2003). Các chùa viện ở những khu vực xa xôi cũng tham gia vào công việc kiếm tiền như trồng cây, trồng rừng, in ấn và bán kinh sách, làm vườn, thành lập những phòng khám chữa bệnh, những cửa hàng tạp hoá, điều hành dịch vụ vận tải cùng các loại dịch vụ khác. Lấy ví dụ chùa Trung Hoa (中华 寺) ở Tỉnh Phúc Kiến, một ngôi chùa nhỏ với khoảng 50 vị tăng. Khởi đầu vào năm 1981, nó cho thuê ba ngàn mẫu đất cho việc trồng trọt, trong số đó 9 mẫu dành trồng ngũ cốc, 120 mẫu dành cho trồng cây, 6 mẫu trồng trà, và số còn lại trồng cây ăn trái. Đến năm 1985 nó thu vào một nguồn lợi tức bao gồm 7, 500 kg ngũ cốc, 300 kg trà, và 15, 000 kg trái cây. Sau đó nó mở rộng thêm những hoạt động khác, bao gồm một phân xưởng may mặc, cửa hiệu, phòng khám chữa bệnh và một nhà máy gạch. Trong vòng một vài năm, chùa đã đạt được doanh thu lớn. Nhờ đó nó xây được một Pháp đường (法堂) lớn, một bãi đậu xe, một phòng đọc kinh và các tăng phòng, mà tất cả đều được trang bị hệ thống điện nước đầy đủ (Thông tin từ Hội Phật giáo Trung Quốc, 1993). Các xí nghiệp hợp doanh với chính quyền địa phương trong các dự án xây cất chùa chiền ở các nơi du lịch thì thường sau đó phải thuê các nhà sư đảm trách cho việc lễ lạc. Các xí nghiệp kinh doanh trong ngành du lịch hễ thấy nơi nào có di tích văn hóa - chẳng hạn như có chùa chiền - thì xem đấy là một nơi có nhiều lợi điểm và sẵn sàng đầu tư vào các nơi này. Nhiều trường hợp xảy ra thật hết sức ngoạn mục, chẳng hạn như ngôi chùa Nanshan (Nam Sơn) ở Hải Nam (Hainan). Ngược lại các công trình xây dựng các pho tượng Phật khổng lồ thường thấy tổ chức khắp nơi chỉ nhờ vào các đóng góp tư nhân. Các công trình này không cần đến ngay cả sự kêu gọi cúng dường của các vị tu hành. Sự phát triển kinh tế nhanh chóng đã giúp cho các chùa viện không chỉ trở nên tự lập về mặt kinh tế, mà cũng khởi đầu cho những đề án phúc lợi xã hội ở một phạm vi rộng lớn. Ví dụ, các chùa viện ở tỉnh Quảng Đông đã chi hơn 118 triệu Nhân dân tệ cho hoạt động phúc lợi xã hội giữa các năm 1993-2002. Nổi bật trong số các chùa viện, chùa Nam Phổ Đà (南普陀寺) ở Hạ Môn đã đóng góp một khoản tiền đồ sộ 17, 426, 315 Nhân dân tệ cho những người nghèo khó giữa các năm 1994-2002 (Thông tin từ Hội Phật giáo Trung Quốc, 1993). Sự phát đạt và tương đối độc lập kinh tế của các tự viện đã đóng góp nhiều cho sự phát triển của họ trên một phần tư thế kỷ qua. Tự lập kinh tế đã cải tiến đời sống tăng lữ, giúp trùng tu các chùa viện và đóng góp phúc lợi chung cho xã hội Trung Quốc. Tuy nhiên, việc trở nên giàu có cũng mang theo nó những nguy cơ mà chúng thách thức chính sự tồn vong của Phật giáo Trung Quốc. Một số chùa chiền được xem như là những địa điểm du lịch hấp dẫn , những cỗ máy làm tiền. Chùa chiền được điều hành vì mục đích kinh tế, gây nên những khó khăn cho các Phật tử thăm viếng vì nhu cầu tâm linh thực sự. Sự phát triển kinh tế thiên lệch trong nhiều chùa viện đã khiến chúng đánh mất đi những đặc tính Phật giáo vốn có. Các du khách nhận thấy rằng cho dù chùa viện được phát triển nhanh chóng, ở đó lại thiếu đi nét đặc biệt. Sự tác động lâu dài của kinh tế thị trường đang làm tổn hại nghiêm trọng bản chất tôn giáo của các chùa viện. Một khi các chùa viện trở thành các cơ sở kinh doanh ở quy mô lớn, thì rất khó cho họ rút ra khỏi những hoạt động kinh doanh đó. Và khi các chùa viện trở thành nơi dành cho du lịch, nhiệm vụ của các tăng ni nghiễm nhiên trở thành công việc tiếp đón du khách, không còn thời gian dành cho Tăng đoàn hay để tu tập. Phương Lập Thiên (方立天) đã nhận xét: “Thứ nhất, mỗi khi các tăng ni đã tham gia vào những hoạt động kinh tế, điều này sẽ đưa đến những thay đổi khách quan lối sống của họ. Thứ hai, những khoá tu học Phật pháp đã suy giảm ở mức độ lớn và thường xuyên. Ví dụ, ở các chùa Tây Tạng, ở đó từng có hơn 30 sinh hoạt tu học mỗi năm, và mỗi lần kéo dài vào khoảng 7 ngày, thì bây giờ những sinh hoạt tu học đã bị giảm xuống còn vào khoảng hai hoặc ba lần mỗi năm, mỗi lần kéo dài 5 ngày. Cải tổ kinh tế ở Trung Quốc cũng tạo nên một tình huống tương tự đối với các Phật tửtại gia. Bận rộn với sản xuất kinh tế và thương mại, các Phật tử tại gia không còn thời gian tham gia vào những sinh hoạt Phật giáo và rồi niềm tin vào đạo trở nên rất mỏng. ” Ngoài ra cũng có những người Phật Giáo tự thành lập các khu du lịch nhằm góp phần phát triển kinh tế địa phương. Trong trường hợp này có thể nêu lên một thí dụ điển hình là ngôi chùa Li Li Gucheng ở tỉnh Cam Túc (Gansu). Một Phật tử nhờ tiền cúng dường đã xây dựng được một khu du lịch thật đồ sộ theo kiến trúc La Mã, và trong khu du lịch này nhiều toà nhà được dành riêng cho việc thiền định. 70% thu nhập của chùa Thiếu Lâm lọt vào ngân quỹ chính quyền địa phương, phần của chùa chỉ còn 30%, hơn nữa việc chi tiêu 30% ấy còn phải đặt dưới sự kiểm soát của một kế toán viên do chính quyền địa phương cử đến. Trước đây vị trụ trì chùa Thiếu Lâm là Shi Yongxin đã nhiều lần xin phép chính quyền địa phương cho tín đồ và các người du lịch đến viếng chùa miễn phí nhưng không được chấp thuận, lý do là có sự tranh giành quyền lợi về tài chính giữa chính quyền địa phương và chùa, và hơn nữa chính quyền địa phương cũng không muốn sự kiện ấy có thể làm lu mờ uy thế của mình nơi địa phương. Vấn đề nghiêm trọng nhất chính là mục đích xuất gia của các tăng ni trong thực hiện cúng đám để kiếm tiền. Ở một vài nơi, người ta gửi con cái vào chùa vì mục đích duy nhất là để học nghi lễ như một thứ kĩ năng kiếm tiền. Một số tăng sĩ trẻ xem việc nghiên cứu Phật học là hoang phí thời gian, trong khi xem việc học nghi lễ để cúng đám là thực tiễn. Điều này góp phần giải thích thêm cho vấn đề thiếu nhân lực đang tồn tại trong Phật giáo hiện nay. Việc quá nhấn mạnh vào phát triển kinh tế của các chùa viện đã tác động mạnh mẽ vào Phật giáo Trung Quốc. Một mặt, nó đã cải tiến được cơ sở hạ tầng và thu nhập cho các chùa viện, cũng như gia tăng vị trí xã hội và giá trị của Tăng đoàn. Nhưng mặt khác, nó gây nên một sự suy thoái ở trong chính Phật giáo bởi vì đã đưa chùa viện ra xa những thực hành Phật giáo, và hướng chúng đến công việc kinh doanh kiếm tiền thế tục. Đây là một thách thức nghiêm trọng mà các Phật tử Trung Quốc hiện nay đang đối mặt.