Tóm tắt: Thân thế và sáng tác của Trần Tế Xương

  1. Kiến thức chung

Từ khóa: 

kiến thức chung

I.Thân thế của Trần Tế Xương 1.Cuộc đời Trần Tế Xương tên thật là Trần Duy Uyên, quen gọi là Tú Xương, tự là Mặc Trai, hiệu là Mộng Tích, đến khi thi Hương mới lấy tên là Trần Tế Xương. Nhưng cái tên Trần Tế Xương cũng chưa phải cối cùng, sau nhiều lần thi hỏng ông đổi tên thành Trần Cao Xương nhưng cũng chẳng may hơn tý nào. Ông sinh ngày 10-8-1871 tại làng Vị Xuyên, huyện Mỹ Lộc, Nam Ðịnh trong một gia đình nhà nho nghèo, đông con và mất ngày 20-1-1907 ở làng Ðịa Tứ cùng huyện. Cuộc đời Tú Xương lận đận về thi cử. Tám khoa đều hỏng nên thi cử đã để lại một dấu ấn không thể phai mờ trong cuộc đời ngắn ngủi của ông. Ông cưới vợ rất sớm. Phạm Thị Mẫn từ một cô gái quê: “ Con gái nhà dòng, lấy chồng kẻ chợ. Tiếng có miếng không, gặp chăng hay chớ” trở thành bà Tú tần tảo một nắng hai sương: “Quanh năm buôn bán ở mom sông. Nuôi đủ năm con với một chồng”. Ông Tú vẫn có thể có tiền để ăn tiêu nhưng gia cảnh nghèo túng, việc nhà trông cậy vào một tay bà Tú. Có thể nói, việc hỏng thi và cảnh nghèo của gia đình là nguồn đề tài phong phú trong sáng tác của Tú Xương. 2.Thời đại: Cuộc đời ông nằm gọn trong giai đoạn nước mất, nhà tan. Năm Tú Xương ba tuổi (1873) Pháp đánh Hà Nội lần thứ nhất rồi tấn công Nam Ðịnh. Năm mười bốn tuổi (1884) triều đình ký hiệp ước dâng đất nước ta cho giặc. Tuổi thơ của Tú Xương trôi qua trong những ngày đen tối và ký ức về những cuộc chiến đấu của các phong trào khởi nghĩa chống Pháp cũng mờ dần. Nhất là sau cuộc khởi nghĩa của Phan Ðình Phùng (1896) bị thất bại thì phong trào đấu tranh chống Pháp dường như tắt hẳn. Năm 1897, Pháp đặt nền móng cai trị đất nước, xã hội có nhiều biến động, nhất là ở thành thị. Tú Xương lại sinh ra và lớn lên ở thành thị vào thời kỳ chế độ thực dân nửa phongkiến được xác lập, nền kinh tế tư bản phát triển ở một nước thuộc địa làm đảo lộn trật tự xã hội, đảo lộn đời sống tinh thần của nhân dân. Nhà thơ đã ghi lại rất sinh động, trung thành bức tranh xã hội buổi giao thời ấy và thể hiện tâm trạng của mình. Có thể nói, đứng trước sự tha hoá của xã hội nên nguyên tắc Tam cương ngũ thường của Tú Xương không đậm như Nguyễn Khuyến và càng xa rời Ðồ Chiểu. 3. Tác phẩm: Tú Xương mất sớm, ông chưa đi trọn con đường sáng tác của mình. Nhưng những tác phẩm Tú Xương để lại có tác dụng như một bản cáo trạng đanh thép lên án xã hội thực dân nửa phong kiến trong giai đoạn nửa cuối thế kỷ XIX. Tú Xương sáng tác rất nhiều và thất lạc cũng nhiều. Ông viết khoảng 151 bài thơ bằng chữ Nôm với đủ các thể loại. Ngoài ra, ông có dịch một số thơ Ðường. II.Sáng tác của Trần Tế Xương 1.Nội dung sáng tác của Trần Tế Xương 1.1.Thơ Tú Xương là một bức tranh nhiều vẻ, sinh động về một xã hội thực dân nửa phong kiến: Trong thơ ông có hình bóng con người và sinh hoạt của xã hội phong kiến cũ đã bị thực dân hóa, và có hình bóng những vật mới, những sinh hoạt mới - sản phẩm của xã hội thực dân nửa phong kiến. Thơ Tú Xương là tiếng nói đả kích, châm biếm sâu sắc và dữ dội vào các đối tượng mà ông căm ghét. a. Ðả kích bọn thực dân Pháp: Ðối với thực dân Pháp, tuy chưa phải là đối tượng chính để tập trung phê phán nhưng ta vẫn bắt gặp bóng dáng những tên thực dân xuất hiện với dáng vẻ rất buồn cười. Ðó là hình ảnh những ông Tây, bà Ðầm rất nghênh ngang lố bịch. Với ngòi bút châm biếm sắc sảo, Tú Xương đả kích chúng không khoan nhượng: Nhà nước ba năm mở một khoa Trường Nam thi lẫn với trường Hà Lôi thôi sĩ tử vai đeo lọ Ậm ọe quan trường miệng thét loa Lọng cắm rợp trời quan sứ đến Váy lê quét đất mụ đầm ra Nhân tài đất Bắc nào ai đó Ngoảnh cổ mà trông cảnh nước nhà. (Vịnh khoa thi Hương năm Ðinh Dậu) b.Ðối với bọn quan lại, tay sai: Ðề tài này thật ra không có gì mới mẻ so với trước, nhưng cái mới ở đây là bút pháp của Tú Xương có cá tính và mang nét cảm hứng thời sự. Dưới ngòi bút của ông, hình ảnh bọn quan lại hiện lên rất phong phú đa dạng. Ðó là những lũ bất tài, dốt nát, chúng không khác chi những tên hề Nào có ra chi lũ hát tuồng Cũng hò cũng hét cũng y uông Dẫu rằng dối được đàn con trẻ Cái mặt bôi vôi nghĩ cũng buồn (Hát tuồng) Ông phê phán trò gian lận, hối lộ, bòn rút của dân không nghĩ gì đến trách nhiệm Tri phủ Xuân Trường được mấy niên? Nhờ trời, hạt ấy cũng bình yên Chữ thôi chữ cứu không phê đến Ông chỉ quen phê một chữ tiền! (Bỡn tri phủ Xuân Trường) Từ đó thấy được thái độ phẫn uất của Tú Xương trước thực trạng xã hội và ông đã dùng ngòi bút của mình để lên án, phê phán những con người, những hiện tượng trái tai, gai mắt. c.Ðối với khoa cử, nho học: Trong bức tranh xã hội của Tú Xương còn có những nho sĩ đi thi, những ông Nghè, ông Cống; có hình ảnh của trường thi, của một nền nho học đang xuống dốc trầm trọng. Thời Tú Xương không còn tìm thấy hình ảnh uy nghi, trang trọng của một trường thi chữ Hán xưa kia nữa mà nó đang lùi dần trước uy thế của kẻ thù. Ông phản ánh thực trạng nho học suy đồi bằng tiếng thở dài áo não: Cử nhân: Cậu ấm Kỷ Tú tài: Con đô Mỹ Thi thế mà cũng thi! Ới khỉ ơi là khỉ! (Than sự thi) Tú Xương than thở cho số phận của một ông Nghè, ông Cống và giễu cả những ông Phán: Nào có gì lạ cái chữ nho Ông nghè, ông cống cũng nằm co Sao bằng đi học làm ông Phán. Tối rượu sâm banh, sáng sữa bò (Chữ nho) Hay đôi khi là sự giễu cợt việc thi cử thiếu nghiêm túc, công bằng Thánh cắt ông vào chủ việc thi Đêm ngày coi sóc chốn trường quy Chẳng hay gian dối vì đâu vậy Bá ngọ thằng ông biết chữ gì? (Chế ông huyện Đ) d.Phê phán thế lực đồng tiền và xã hội suy thoái đạo đức Trước Tú Xương, nhiều tác giả Việt Nam cũng như nừơc ngoài đã lên án sức mạnh đồng tiền. Nó chi phối tư tưởng và hành động của con người. Ðến thời Tú Xương, đồng tiền lại một lần nữa gây đảo điên xã hội nhất là ở thành thị. Nó làm cho đạo đức suy đồi từ trong gia đình cho đến ngoài xã hội. Có thể thấy bức tranh xã hội của Tú Xương bị tha hóa đến trầm trọng. Nào là cảnh: Ở phố Hàng Song thật lắm quan Thành thì đen kịt, độc thì lang Chồng chung vợ cha kìa cô Bố Ðậu lại quan xin nọ chú Hàn (Phố hàng Song) Vì đồng tiền, con người lường gạt nhau để sống, đối xử với nhau không ra gì. Tình nghĩa cha con, vợ chồng, tình yêu, tình bè bạn . . . đều bị chà đạp bởi thế lực của đồng tiền và trở nên rẻ rúng: Mới biết hồng nhan là thế thế Trăm năm trăm tuổi lại trăm chồng Ngòi bút Tú Xương đã khái quát bức tranh hiện thực sinh động về một xã hội lố lăng, rởm đời, có những cảnh khá nực cười, những cảnh chướng tai, gai mắt cứ nhan nhản xuất hiện trong thơ Tú Xương Chí cha chí chát khua giày dép, Ðen thủi đen thui cũng lụa là. 1.2. Thơ Tú Xương là tiếng nói tâm tình trĩu nặng đau xót: Về bản thân: Gánh nặng đeo đẳng nhà thơ suốt đòi là nợ lều chõng. Ban đầu hỏng thi, ông còn cười cợt, còn tự nghĩ cách để an ủi mình. Nhưng các khoa thi sau ( 1903, 1906) ông càng thất vọng, càng chua chát. Tú Xương ngày càng đau buồn, chán nãn, tuyệt vọng và cay cú: Học đã sôi cơm nhưng chữa chín. Thi không ăn ớt thế mà cay Ðến khoa thi cuối (1906) tiếng thở dài của Tú Xuơng càng áo não và bi thiết hơn nhiều: Bụng buồn còn biết nói năng chi Ðệ nhất buồn là cái hỏng thi Một việc văn chương thôi cũng nhảm Trăm năm thân thế chẳng ra gì (Buồn thi hỏng) Ở đây, dù đau vì thi rớt, vì công danh không thành đạt nhưng Tú Xương vẫn ít ủy mị và luôn tỏ thái độ khôi hài, lúc nào nụ cười trào phúng cũng đến với ông. Về cảnh nghèo: Qua thơ ông, gia cảnh nhà ông hiện lên rất áo não và bi thiết.Nhà thơ từng thấm thía cảnh chạy ăn, vay nợ, nhiều lúc ông phải gào lên: Van nợ lắm khi trào nước mắt Chạy ăn từng bữa toát mồ hôi (Than nghèo) 1.3. Nỗi lo lắng thầm kín của Tú Xương trước thời cuộc và vận mệnh đất nước: - Tình cảm của Tú Xương đối với nhân dân: Ðối với người phụ nữ, hình ảnh họ hiện lên thật đáng thương, họ không những khổ sở về vật chất mà còn bị đau đớn về mặt tinh thần Thương vợ là một bài thơ tiêu biểu của Tú Xương viết về vợ: Quanh năm buôn bán ở mom sông Nuôi đủ năm con với một chồng Lặn lội thân cò khi quãng vắng, Eo sèo mặt nước buổi đò đông Một duyên hai nợ âu đành phận Năm nắng mười mưa dám quản công Cha mẹ thói đời ăn ở bạc Có chồng hờ hững cũng như không. ( Thương vợ) Nỗi u hoài kín đáo của Tú Xương trước thời cuộc và vận mệnh đất nước thường triền miên, day dứt: Nhân tài đất Bắc nào ai đó? Ngoảnh cổ mà trông cảnh nước nhà (Vịnh khoa thi Hương năm Ðinh Dậu) Lòng yêu nước của Tú Xuơng còn thể hiện qua sự khâm phục của Tú Xương đối với những người có tài, có đức ra cứu đời, giúp nước: Vá trời gặp hội mây năm vẻ Lấp bể ra công đất một hòn (Gửi cụ thủ khoa Phan) Tuy không đủ dũng khí để đi vào cuộc cách mạnh như bao nghĩa sĩ yêu nước khác nhưng ông có cảm tình nồng hậu đối với những người làm cách mạng. Hình ảnh Phan Bội Châu Vá trời, lấp bể đã đến với Tú Xương bằng tất cả sự kính mến, khâm phục. Tú Xương đến trong làng thơ cuối thế kỉ XIX với nụ cười sắc sảo và độc địa. Dưới ngòi bút linh hoạt của ông, xã hội thực dân nửa phong kiến ngu xuẩn và giả dối vừa mới thành lập ở nước ta đã bị bóc trần một cách thảm hại. Đó cũng chính là lời tố cáo đanh thép mà nhà thơ muốn gửi gắm qua tác phẩm của mình. 2.Nghệ thuật sáng tác của nhà thơ Trần Tế Xương 2.1. Kết cấu a. Thơ trào phúng của Tú Xương hết sức đa dạng và phong phú: Có bài thơ vừa có hiện thực vừa có trào phúng. Bằng nhiều thủ pháp nghệ thuật Tú Xương làm tiếng cười làm vũ khí. Ở Tú Xương không có cái nhàn nhạt, không có cái lưng chưng, chửi là chửi độc, chua chát đến ứa máu. Có những bài tự trào, tự khoe về mình, dùng ngôn ngữ lấp lững, ỡm ờ, hoặc những từ hoàn toàn thô tục . . . Tứ thơ thường độc đáo, đột ngột, táo bạo gây sự chú ý và bám vào linh hồn của chủ đề. Tú Xương đã quàng vào cổ ông Hàn nọ (Vốn làm nghề nấu rượu) những xâu, chai, lọ, vung, nồi lổn nhổn: Hàn lâm tu soạn kém gì ai? Ðủ cả vung nồi, cả cóng chai (Ðưa ông Hàn) Cái tài tình của Tú Xương là chợp đúng cái thần của sự vật bằng một vài nét điển hình, rồi với cách nói thẳng thừng, táo bạo và hài hước của mình, ông phơi bày cái lõi của sự thật cho mọi người xem có khi ở câu đầu: Lúc túng toan lên bán cả trời Trời rằng thằng bé nó hay chơi (Tự cười mình) Có khi ở cuối câu: Cụ Xứ có cô con gái đẹp Lăm le xin bố cưới làm chồng (Ði thi nói ngông) Có khi mượn lối chơi chữ: Ấm không ra ấm, ấm ra nồi Ấm chạy lăng quăng, ấm chẳng ngồi (Bỡn ông ấm Ðiềm) Có lúc nhân cái mồm tu hú của đối tượng mà hạ một ý thật lạ lùng: Cậu này ắt hẵn hay nghề sáo, Dây vũ dây văn vụng ngón đàn (Thông gia với quan) Hoặc mở đầu bài thơ Ðể vợ chơi nhăng là đánh thẳng đối tượng là anh chồng ngu: Thọ kia mày có biết hay chăng Con vợ mày kia xiết nói năng Vợ đẹp của người không giữ được Chồng ngu mượn đứa để chơi nhăng Nhưng mục đích chính là đả kích mụ vợ, nên khổ thơ cứ dồn dập và quyết liệt: Ra đường đáng giá người trinh thục Trong bụng sao mà những gió trăng, Mới biết hồng nhan là thế thế, Trăm năm, trăm tuổi, lại trăm thằng. Có thể nói, Tú Xương đạt đến đỉnh cao của nghệ thuật kết cấu trong thơ trào phúng, trước hết vì tiếng cười của ông là sự phê phán của một lý trí và cảm xúc nhạy bén của con tim nên tiếng cười trào phúng của Tú Xương rất chắc, hiệu quả cao. b.Thơ trữ tình của Tú Xương: Lời thơ nhuần nhuyễn, ý thơ gần gũi, sâu lắng. Các bài thơ tiêu biểu Ðêm hè, Ngẫu hứng, Sông lấp, Gửi cụ thủ khoa Phan, Nhớ bạn phương trời . . . thể hiện cái sâu xa trong tâm trạng của ông đó là tinh thần dân tộc, tuy có giới hạn nhưng rất đáng quý, đã hình thành nên tính cách Tú Xương. Ông có những bài thơ thể hiện tình cảm lãng mạn cũng khá hiện đại: Em gửi cho anh mãnh lụa đào Không biết rằng em bán thế nào (Tặng người quen) Ðề tài thơ trữ tình của Tú Xương tuy không phong phú và đa dạng như thơ trào phúng nhưng cũng rất sâu sắc và đậm đà. Nhà thơ sử dụng nhiều chi tiết từ cuộc sống nên tứ thơ rất sinh động, nhiều chi tiết xác thực như bản thân đời sống. Hình ảnh bà Tú được tái hiện bằng những nét rất thực: Lặn lội thân cò khi quãng vắng Eo sèo mặt nước buổi đò đông. (Thương vợ) Bài thơ Nhớ bạn phương trời đã đi sâu vào thế gới tâm trạng, tràn ngập cảm xúc trữ tình của nhà thơ đối với nhà cách mạng Phan Bội Châu. Ta nhớ người xa cách núi sông, Người xa, xa lắm nhớ ta không? Sao đang vui vẻ ra buồn bã Vừa mới quen nhau đã lạ lùng Lúc nhớ, nhớ cùng trong mộng tưởng Khi riêng riêng đến cả tình chung Tương tư lọ phải là trai gái, Một ngọn đèn xanh trống điểm thùng. c.Sự kết hợp hai yếu tố hiện thực và trữ tình: Rất độc đáo và sâu sắc. Kết cấu bài thơ không gò bó. Tính phóng túng trong suy nghĩ cũng như trong tính tình đã đem vào khuôn khổ thể thơ bảy chữ tám câu nhiều nét mới đã phá vỡ mọi qui định: Việc bác không xong tôi chết ngay! Chết ngay? Như thế vội vàng thay! (Bỡn người làm mối) Hỏi lão đâu ta?- Lão ở Liêm Trông ra bóng dáng đã hom hem (Già chơi trống bỏi) Người đói ta đây cũng chẳng no, Cha thằng nào có tiếc không cho (Thề với ăn xin) Rất nhiều bài thơ của Tú Xương có sự kết hợp hài hòa hai yếu tố hiện thực và trữ tình (Vịnh khoa thi hương năm Ðinh Dậu, Thương vợ, Thề với ăn xin . . .) Nói về sự kết hợp giữa hai yếu tố hiện thực và trữ tình trong một bài thơ, Nguyễn Tuân cho rằng: Sở dĩ thơ Tú Xương không bị tắt gió, không bị bay ra khỏi là vì thơ Tú Xương đã đi bằng hai chân hiện thực và lãng mạn, là vì thi pháp của Tú Xương phối hợp cả hiện thực và trữ tình
Trả lời
I.Thân thế của Trần Tế Xương 1.Cuộc đời Trần Tế Xương tên thật là Trần Duy Uyên, quen gọi là Tú Xương, tự là Mặc Trai, hiệu là Mộng Tích, đến khi thi Hương mới lấy tên là Trần Tế Xương. Nhưng cái tên Trần Tế Xương cũng chưa phải cối cùng, sau nhiều lần thi hỏng ông đổi tên thành Trần Cao Xương nhưng cũng chẳng may hơn tý nào. Ông sinh ngày 10-8-1871 tại làng Vị Xuyên, huyện Mỹ Lộc, Nam Ðịnh trong một gia đình nhà nho nghèo, đông con và mất ngày 20-1-1907 ở làng Ðịa Tứ cùng huyện. Cuộc đời Tú Xương lận đận về thi cử. Tám khoa đều hỏng nên thi cử đã để lại một dấu ấn không thể phai mờ trong cuộc đời ngắn ngủi của ông. Ông cưới vợ rất sớm. Phạm Thị Mẫn từ một cô gái quê: “ Con gái nhà dòng, lấy chồng kẻ chợ. Tiếng có miếng không, gặp chăng hay chớ” trở thành bà Tú tần tảo một nắng hai sương: “Quanh năm buôn bán ở mom sông. Nuôi đủ năm con với một chồng”. Ông Tú vẫn có thể có tiền để ăn tiêu nhưng gia cảnh nghèo túng, việc nhà trông cậy vào một tay bà Tú. Có thể nói, việc hỏng thi và cảnh nghèo của gia đình là nguồn đề tài phong phú trong sáng tác của Tú Xương. 2.Thời đại: Cuộc đời ông nằm gọn trong giai đoạn nước mất, nhà tan. Năm Tú Xương ba tuổi (1873) Pháp đánh Hà Nội lần thứ nhất rồi tấn công Nam Ðịnh. Năm mười bốn tuổi (1884) triều đình ký hiệp ước dâng đất nước ta cho giặc. Tuổi thơ của Tú Xương trôi qua trong những ngày đen tối và ký ức về những cuộc chiến đấu của các phong trào khởi nghĩa chống Pháp cũng mờ dần. Nhất là sau cuộc khởi nghĩa của Phan Ðình Phùng (1896) bị thất bại thì phong trào đấu tranh chống Pháp dường như tắt hẳn. Năm 1897, Pháp đặt nền móng cai trị đất nước, xã hội có nhiều biến động, nhất là ở thành thị. Tú Xương lại sinh ra và lớn lên ở thành thị vào thời kỳ chế độ thực dân nửa phongkiến được xác lập, nền kinh tế tư bản phát triển ở một nước thuộc địa làm đảo lộn trật tự xã hội, đảo lộn đời sống tinh thần của nhân dân. Nhà thơ đã ghi lại rất sinh động, trung thành bức tranh xã hội buổi giao thời ấy và thể hiện tâm trạng của mình. Có thể nói, đứng trước sự tha hoá của xã hội nên nguyên tắc Tam cương ngũ thường của Tú Xương không đậm như Nguyễn Khuyến và càng xa rời Ðồ Chiểu. 3. Tác phẩm: Tú Xương mất sớm, ông chưa đi trọn con đường sáng tác của mình. Nhưng những tác phẩm Tú Xương để lại có tác dụng như một bản cáo trạng đanh thép lên án xã hội thực dân nửa phong kiến trong giai đoạn nửa cuối thế kỷ XIX. Tú Xương sáng tác rất nhiều và thất lạc cũng nhiều. Ông viết khoảng 151 bài thơ bằng chữ Nôm với đủ các thể loại. Ngoài ra, ông có dịch một số thơ Ðường. II.Sáng tác của Trần Tế Xương 1.Nội dung sáng tác của Trần Tế Xương 1.1.Thơ Tú Xương là một bức tranh nhiều vẻ, sinh động về một xã hội thực dân nửa phong kiến: Trong thơ ông có hình bóng con người và sinh hoạt của xã hội phong kiến cũ đã bị thực dân hóa, và có hình bóng những vật mới, những sinh hoạt mới - sản phẩm của xã hội thực dân nửa phong kiến. Thơ Tú Xương là tiếng nói đả kích, châm biếm sâu sắc và dữ dội vào các đối tượng mà ông căm ghét. a. Ðả kích bọn thực dân Pháp: Ðối với thực dân Pháp, tuy chưa phải là đối tượng chính để tập trung phê phán nhưng ta vẫn bắt gặp bóng dáng những tên thực dân xuất hiện với dáng vẻ rất buồn cười. Ðó là hình ảnh những ông Tây, bà Ðầm rất nghênh ngang lố bịch. Với ngòi bút châm biếm sắc sảo, Tú Xương đả kích chúng không khoan nhượng: Nhà nước ba năm mở một khoa Trường Nam thi lẫn với trường Hà Lôi thôi sĩ tử vai đeo lọ Ậm ọe quan trường miệng thét loa Lọng cắm rợp trời quan sứ đến Váy lê quét đất mụ đầm ra Nhân tài đất Bắc nào ai đó Ngoảnh cổ mà trông cảnh nước nhà. (Vịnh khoa thi Hương năm Ðinh Dậu) b.Ðối với bọn quan lại, tay sai: Ðề tài này thật ra không có gì mới mẻ so với trước, nhưng cái mới ở đây là bút pháp của Tú Xương có cá tính và mang nét cảm hứng thời sự. Dưới ngòi bút của ông, hình ảnh bọn quan lại hiện lên rất phong phú đa dạng. Ðó là những lũ bất tài, dốt nát, chúng không khác chi những tên hề Nào có ra chi lũ hát tuồng Cũng hò cũng hét cũng y uông Dẫu rằng dối được đàn con trẻ Cái mặt bôi vôi nghĩ cũng buồn (Hát tuồng) Ông phê phán trò gian lận, hối lộ, bòn rút của dân không nghĩ gì đến trách nhiệm Tri phủ Xuân Trường được mấy niên? Nhờ trời, hạt ấy cũng bình yên Chữ thôi chữ cứu không phê đến Ông chỉ quen phê một chữ tiền! (Bỡn tri phủ Xuân Trường) Từ đó thấy được thái độ phẫn uất của Tú Xương trước thực trạng xã hội và ông đã dùng ngòi bút của mình để lên án, phê phán những con người, những hiện tượng trái tai, gai mắt. c.Ðối với khoa cử, nho học: Trong bức tranh xã hội của Tú Xương còn có những nho sĩ đi thi, những ông Nghè, ông Cống; có hình ảnh của trường thi, của một nền nho học đang xuống dốc trầm trọng. Thời Tú Xương không còn tìm thấy hình ảnh uy nghi, trang trọng của một trường thi chữ Hán xưa kia nữa mà nó đang lùi dần trước uy thế của kẻ thù. Ông phản ánh thực trạng nho học suy đồi bằng tiếng thở dài áo não: Cử nhân: Cậu ấm Kỷ Tú tài: Con đô Mỹ Thi thế mà cũng thi! Ới khỉ ơi là khỉ! (Than sự thi) Tú Xương than thở cho số phận của một ông Nghè, ông Cống và giễu cả những ông Phán: Nào có gì lạ cái chữ nho Ông nghè, ông cống cũng nằm co Sao bằng đi học làm ông Phán. Tối rượu sâm banh, sáng sữa bò (Chữ nho) Hay đôi khi là sự giễu cợt việc thi cử thiếu nghiêm túc, công bằng Thánh cắt ông vào chủ việc thi Đêm ngày coi sóc chốn trường quy Chẳng hay gian dối vì đâu vậy Bá ngọ thằng ông biết chữ gì? (Chế ông huyện Đ) d.Phê phán thế lực đồng tiền và xã hội suy thoái đạo đức Trước Tú Xương, nhiều tác giả Việt Nam cũng như nừơc ngoài đã lên án sức mạnh đồng tiền. Nó chi phối tư tưởng và hành động của con người. Ðến thời Tú Xương, đồng tiền lại một lần nữa gây đảo điên xã hội nhất là ở thành thị. Nó làm cho đạo đức suy đồi từ trong gia đình cho đến ngoài xã hội. Có thể thấy bức tranh xã hội của Tú Xương bị tha hóa đến trầm trọng. Nào là cảnh: Ở phố Hàng Song thật lắm quan Thành thì đen kịt, độc thì lang Chồng chung vợ cha kìa cô Bố Ðậu lại quan xin nọ chú Hàn (Phố hàng Song) Vì đồng tiền, con người lường gạt nhau để sống, đối xử với nhau không ra gì. Tình nghĩa cha con, vợ chồng, tình yêu, tình bè bạn . . . đều bị chà đạp bởi thế lực của đồng tiền và trở nên rẻ rúng: Mới biết hồng nhan là thế thế Trăm năm trăm tuổi lại trăm chồng Ngòi bút Tú Xương đã khái quát bức tranh hiện thực sinh động về một xã hội lố lăng, rởm đời, có những cảnh khá nực cười, những cảnh chướng tai, gai mắt cứ nhan nhản xuất hiện trong thơ Tú Xương Chí cha chí chát khua giày dép, Ðen thủi đen thui cũng lụa là. 1.2. Thơ Tú Xương là tiếng nói tâm tình trĩu nặng đau xót: Về bản thân: Gánh nặng đeo đẳng nhà thơ suốt đòi là nợ lều chõng. Ban đầu hỏng thi, ông còn cười cợt, còn tự nghĩ cách để an ủi mình. Nhưng các khoa thi sau ( 1903, 1906) ông càng thất vọng, càng chua chát. Tú Xương ngày càng đau buồn, chán nãn, tuyệt vọng và cay cú: Học đã sôi cơm nhưng chữa chín. Thi không ăn ớt thế mà cay Ðến khoa thi cuối (1906) tiếng thở dài của Tú Xuơng càng áo não và bi thiết hơn nhiều: Bụng buồn còn biết nói năng chi Ðệ nhất buồn là cái hỏng thi Một việc văn chương thôi cũng nhảm Trăm năm thân thế chẳng ra gì (Buồn thi hỏng) Ở đây, dù đau vì thi rớt, vì công danh không thành đạt nhưng Tú Xương vẫn ít ủy mị và luôn tỏ thái độ khôi hài, lúc nào nụ cười trào phúng cũng đến với ông. Về cảnh nghèo: Qua thơ ông, gia cảnh nhà ông hiện lên rất áo não và bi thiết.Nhà thơ từng thấm thía cảnh chạy ăn, vay nợ, nhiều lúc ông phải gào lên: Van nợ lắm khi trào nước mắt Chạy ăn từng bữa toát mồ hôi (Than nghèo) 1.3. Nỗi lo lắng thầm kín của Tú Xương trước thời cuộc và vận mệnh đất nước: - Tình cảm của Tú Xương đối với nhân dân: Ðối với người phụ nữ, hình ảnh họ hiện lên thật đáng thương, họ không những khổ sở về vật chất mà còn bị đau đớn về mặt tinh thần Thương vợ là một bài thơ tiêu biểu của Tú Xương viết về vợ: Quanh năm buôn bán ở mom sông Nuôi đủ năm con với một chồng Lặn lội thân cò khi quãng vắng, Eo sèo mặt nước buổi đò đông Một duyên hai nợ âu đành phận Năm nắng mười mưa dám quản công Cha mẹ thói đời ăn ở bạc Có chồng hờ hững cũng như không. ( Thương vợ) Nỗi u hoài kín đáo của Tú Xương trước thời cuộc và vận mệnh đất nước thường triền miên, day dứt: Nhân tài đất Bắc nào ai đó? Ngoảnh cổ mà trông cảnh nước nhà (Vịnh khoa thi Hương năm Ðinh Dậu) Lòng yêu nước của Tú Xuơng còn thể hiện qua sự khâm phục của Tú Xương đối với những người có tài, có đức ra cứu đời, giúp nước: Vá trời gặp hội mây năm vẻ Lấp bể ra công đất một hòn (Gửi cụ thủ khoa Phan) Tuy không đủ dũng khí để đi vào cuộc cách mạnh như bao nghĩa sĩ yêu nước khác nhưng ông có cảm tình nồng hậu đối với những người làm cách mạng. Hình ảnh Phan Bội Châu Vá trời, lấp bể đã đến với Tú Xương bằng tất cả sự kính mến, khâm phục. Tú Xương đến trong làng thơ cuối thế kỉ XIX với nụ cười sắc sảo và độc địa. Dưới ngòi bút linh hoạt của ông, xã hội thực dân nửa phong kiến ngu xuẩn và giả dối vừa mới thành lập ở nước ta đã bị bóc trần một cách thảm hại. Đó cũng chính là lời tố cáo đanh thép mà nhà thơ muốn gửi gắm qua tác phẩm của mình. 2.Nghệ thuật sáng tác của nhà thơ Trần Tế Xương 2.1. Kết cấu a. Thơ trào phúng của Tú Xương hết sức đa dạng và phong phú: Có bài thơ vừa có hiện thực vừa có trào phúng. Bằng nhiều thủ pháp nghệ thuật Tú Xương làm tiếng cười làm vũ khí. Ở Tú Xương không có cái nhàn nhạt, không có cái lưng chưng, chửi là chửi độc, chua chát đến ứa máu. Có những bài tự trào, tự khoe về mình, dùng ngôn ngữ lấp lững, ỡm ờ, hoặc những từ hoàn toàn thô tục . . . Tứ thơ thường độc đáo, đột ngột, táo bạo gây sự chú ý và bám vào linh hồn của chủ đề. Tú Xương đã quàng vào cổ ông Hàn nọ (Vốn làm nghề nấu rượu) những xâu, chai, lọ, vung, nồi lổn nhổn: Hàn lâm tu soạn kém gì ai? Ðủ cả vung nồi, cả cóng chai (Ðưa ông Hàn) Cái tài tình của Tú Xương là chợp đúng cái thần của sự vật bằng một vài nét điển hình, rồi với cách nói thẳng thừng, táo bạo và hài hước của mình, ông phơi bày cái lõi của sự thật cho mọi người xem có khi ở câu đầu: Lúc túng toan lên bán cả trời Trời rằng thằng bé nó hay chơi (Tự cười mình) Có khi ở cuối câu: Cụ Xứ có cô con gái đẹp Lăm le xin bố cưới làm chồng (Ði thi nói ngông) Có khi mượn lối chơi chữ: Ấm không ra ấm, ấm ra nồi Ấm chạy lăng quăng, ấm chẳng ngồi (Bỡn ông ấm Ðiềm) Có lúc nhân cái mồm tu hú của đối tượng mà hạ một ý thật lạ lùng: Cậu này ắt hẵn hay nghề sáo, Dây vũ dây văn vụng ngón đàn (Thông gia với quan) Hoặc mở đầu bài thơ Ðể vợ chơi nhăng là đánh thẳng đối tượng là anh chồng ngu: Thọ kia mày có biết hay chăng Con vợ mày kia xiết nói năng Vợ đẹp của người không giữ được Chồng ngu mượn đứa để chơi nhăng Nhưng mục đích chính là đả kích mụ vợ, nên khổ thơ cứ dồn dập và quyết liệt: Ra đường đáng giá người trinh thục Trong bụng sao mà những gió trăng, Mới biết hồng nhan là thế thế, Trăm năm, trăm tuổi, lại trăm thằng. Có thể nói, Tú Xương đạt đến đỉnh cao của nghệ thuật kết cấu trong thơ trào phúng, trước hết vì tiếng cười của ông là sự phê phán của một lý trí và cảm xúc nhạy bén của con tim nên tiếng cười trào phúng của Tú Xương rất chắc, hiệu quả cao. b.Thơ trữ tình của Tú Xương: Lời thơ nhuần nhuyễn, ý thơ gần gũi, sâu lắng. Các bài thơ tiêu biểu Ðêm hè, Ngẫu hứng, Sông lấp, Gửi cụ thủ khoa Phan, Nhớ bạn phương trời . . . thể hiện cái sâu xa trong tâm trạng của ông đó là tinh thần dân tộc, tuy có giới hạn nhưng rất đáng quý, đã hình thành nên tính cách Tú Xương. Ông có những bài thơ thể hiện tình cảm lãng mạn cũng khá hiện đại: Em gửi cho anh mãnh lụa đào Không biết rằng em bán thế nào (Tặng người quen) Ðề tài thơ trữ tình của Tú Xương tuy không phong phú và đa dạng như thơ trào phúng nhưng cũng rất sâu sắc và đậm đà. Nhà thơ sử dụng nhiều chi tiết từ cuộc sống nên tứ thơ rất sinh động, nhiều chi tiết xác thực như bản thân đời sống. Hình ảnh bà Tú được tái hiện bằng những nét rất thực: Lặn lội thân cò khi quãng vắng Eo sèo mặt nước buổi đò đông. (Thương vợ) Bài thơ Nhớ bạn phương trời đã đi sâu vào thế gới tâm trạng, tràn ngập cảm xúc trữ tình của nhà thơ đối với nhà cách mạng Phan Bội Châu. Ta nhớ người xa cách núi sông, Người xa, xa lắm nhớ ta không? Sao đang vui vẻ ra buồn bã Vừa mới quen nhau đã lạ lùng Lúc nhớ, nhớ cùng trong mộng tưởng Khi riêng riêng đến cả tình chung Tương tư lọ phải là trai gái, Một ngọn đèn xanh trống điểm thùng. c.Sự kết hợp hai yếu tố hiện thực và trữ tình: Rất độc đáo và sâu sắc. Kết cấu bài thơ không gò bó. Tính phóng túng trong suy nghĩ cũng như trong tính tình đã đem vào khuôn khổ thể thơ bảy chữ tám câu nhiều nét mới đã phá vỡ mọi qui định: Việc bác không xong tôi chết ngay! Chết ngay? Như thế vội vàng thay! (Bỡn người làm mối) Hỏi lão đâu ta?- Lão ở Liêm Trông ra bóng dáng đã hom hem (Già chơi trống bỏi) Người đói ta đây cũng chẳng no, Cha thằng nào có tiếc không cho (Thề với ăn xin) Rất nhiều bài thơ của Tú Xương có sự kết hợp hài hòa hai yếu tố hiện thực và trữ tình (Vịnh khoa thi hương năm Ðinh Dậu, Thương vợ, Thề với ăn xin . . .) Nói về sự kết hợp giữa hai yếu tố hiện thực và trữ tình trong một bài thơ, Nguyễn Tuân cho rằng: Sở dĩ thơ Tú Xương không bị tắt gió, không bị bay ra khỏi là vì thơ Tú Xương đã đi bằng hai chân hiện thực và lãng mạn, là vì thi pháp của Tú Xương phối hợp cả hiện thực và trữ tình