Chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Lục bộ dưới các triều đại phong kiến Việt Nam.

  1. Lịch sử

Tìm hiểu về bộ máy Nhà nước các triều đại phong kiến Việt Nam, chúng ta dễ dàng bắt gặp một khái niệm là “Lục bộ”. Khái niệm này dùng để chỉ 6 bộ trong triều đình phong kiến, bao gồm: Lại bộ, Hộ bộ, Lễ bộ, Binh bộ, Hình bộ và Công bộ.

1. “Lục bộ” trước thời kỳ Lê trung hưng:

Lâu nay, chúng ta đều có suy nghĩ rằng, “Lục bộ” ra đời dưới triều vua Lê Nghi Dân (1460)

[1]
. Nhưng một số quan điểm cho rằng, “Lục bộ” đã xuất hiện dưới triều Lý rồi
[2]
. Tiến hành khảo cứu lại, chúng tôi thấy quan điểm đó cũng đúng; điểm khác biệt là, triều Hậu Lê về sau đã quy định rõ ràng chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của “Lục bộ” còn trước đó thì không thể khảo cứu được chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của “Lục bộ”. Có thể các triều đại đó không quy định, hoặc do mất mát sử liệu mà không thể khảo cứu được.

Theo Đại Việt sử ký bản kỷ thực lục, quyển XII: “Tân Mão, năm thứ 2 (1471, Minh Thành Hóa năm thứ 7)…. Tháng 9… Ngày 26, sửa định Hoàng triều quan chế. Vua dụ các quan viên văn võ và nhân dân rằng: “….; việc công bề bộn thì sáu bộ bàn nhau mà làm… Sáu khoa để xét bác trăm ty, sáu tự để thừa hành mọi việc… Công việc liên lạc, ràng buộc lẫn nhau. Cho nên gọi lính lấy quân là việc của đốc phủ, mà thể thống phải do bộ Binh; chi ra thu vào là chức của bộ Hộ, mà giúp đỡ tất có khoa Hộ. Bộ Lại thăng bổ không xứng tài thì khoa Lại có quyền bác bỏ; bộ Lễ nghi chế không hợp lễ, thì khoa Lễ được phép hặc tâu. Khoa Hình thì xét lại lời thẩm đoán của bộ Hình phải trái thế nào; khoa Công thì kiểm điểm hạn công tác của bộ Công chăm chỉ trễ biếng…

           …; lấy Lại, Hộ, Lễ, Binh, Hình, Công làm sáu bộ. Ngoài sáu bộ lại có sáu khoa. Đại lý, Thái thường, Quang lộc, Thái bộc, Hồng lô, Thượng bảo làm sáu tự…

[3]
.

2. “Lục bộ” dưới thời kỳ Lê trung hưng:

Đến thời kỳ Lê trung hưng, Lục phiên bên phủ chúa đã rút hết quyền lực của Lục bộ bên triều đình. Theo Lịch triều Hiến chương loại chí, quyển XIII: “Năm thứ 14 [1718], bắt đầu đặt quan sáu phiên, chia tả trung, hữu trung, đông, tây, nam, bắc và gọi là sáu cung, giữ mọi việc của cải, thuế khóa, binh dân

[4]
. Đó cũng là thực tế của thời kỳ đó, khi phủ chúa Trịnh là “trung tâm quyền lực” của nước ta còn triều đình là hư danh; chúa Trịnh tuy là bề tôi nhưng là “chủ nhân thực sự” của Đại Việt, còn vua Lê chỉ là “hư vị” mà thôi. Chính vì thế, người Đàng Ngoài mới có câu rằng: “nghìn vị Vua băng chẳng hề làm đất nước lâm nguy nhưng một ông Chúa chết mọi người đều hoang mang, lòng dân bất an, triều chính loạn đảo
[5]
.

Tuy rằng đã bị rút bớt từng phần quyền lực từ triều đình về bên phủ chúa, nhưng Lục bộ vẫn có những quyền lực nhất định. Cụ thể, năm Đức Nguyên thứ 2 (1675), triều đình đã định rõ sự lệ về chức vụ của sáu bộ như sau

[6]
:

           + Bộ Lại giữ công việc quan tước, chọn bổ, xét hạch, thăng giáng và các việc điền bổ [chức khuyết], cấp cho [bổng lộc].

           + Bộ Hộ giữ công việc ruộng đất, nhân dân, kho tàng, lương tiền, thu phát và các việc về ruộng lộc, thuế má, muối, sắt.

           + Bộ Lễ giữ công việc lễ nghi, tế tự, lễ mừng, tiệc yến, việc học, việc thi cử, các chi tiết về áo mũ, ấn, dấu, chương tấu, bài biểu, việc đi cống, đi sứ, vào chầu. Lại kiêm trông coi các việc về tư thiên (thiên văn), về y, bốc, tăng, đạo, giáo phường, đồng văn, nhã nhạc.

           + Bộ Binh giữ công việc binh nhung, cấm vệ, xe ngựa, nghi trượng, khí giới và các việc về dân biên giới, quân trấn giữ, các dịch trạm, các dân Man di hiểm hại, những việc khẩn cấp.

           + Bộ Hình giữ công việc luật lệnh, hình pháp, xét lại ngục tụng, xử tội về năm hình.

           + Bộ Công giữ công việc thành trì, cầu cống, đường sá, xây đắp, thợ thuyền, việc sửa chữa xây dựng cùng là việc cấm chế về núi rừng, vườn tược, sông, đầm.

Năm Cảnh Hưng thứ 12 [1751] (lúc này đã có Lục phiên), thì Lục bộ chỉ còn chức năng “nắm việc đại cương” của Lục phiên

[7]
. Tuy nhiên, triều đình cũng có những quy định rõ ràng về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Lục bộ
[8]
:

           + Chức vụ Lại bộ: Cân nhắc nhân vật, bổ dùng các quan chức trong ngoài. Về việc chọn bổ các chức quận thú, huyện lệnh ở trong hay ngoài, càng phải cẩn thận. Nên chiếu theo sự lý của triều trước đã định rõ, xét lời nói, việc làm, xem khí độ, kiến thức và xem khoa trường trúng nhiều kỳ hay ít, làm việc lâu năm hay mới, để làm chuẩn định bổ đi chỗ nhiều việc hay chỗ ít việc. Như chức nhiệm ở ngoài có viên nào khuyết, thấy tờ trình của hai ty thì lập tức chọn người bổ dụng, không được để chậm. Người nào không do khoa trường và mới làm việc mà cậy người xin hộ đưa đơn thẳng lên thì cho được trả lại và bác bỏ, lại trình xin luận tội, để trừng trị thói tệ và giữ trong sạch cho đường làm quan. Việc bổ khuyết và việc bổ lớn, thì chiếu quy lệ, từ khi yết thị đến khi nộp giấy xin, không quá hai tháng; từ khi thẩm duyệt đến khi mở kỳ thuyên bổ và dâng tờ khải, cũng không quá hai tháng, như thế cho khỏi chậm trễ. Nếu dám khinh suất dụng tình, kéo dài sinh sự, cùng là tuyển bổ không đúng lệ, nhiệm dụng không đáng tài, đều cho quan đài [Ngự sử] xét hặc, quan khoa [Lại] bác trả, quan phúc tra xét lại, đều tùy sự lý nhẹ hay nặng mà xử biếm phạt. Còn việc khác, như tra khám những vụ kiện kêu lại ở Lại phiên và những việc thuộc về ban [phẩm trật], cấp [bổng lộc], thì đều chiếu theo điều lệ mà phụng hành.

           + Chức vụ Hộ bộ: Tra khám các vụ kiện kêu lại ở Hộ phiên; các việc đưa phát [tiền của] thì chiếu theo điều lệ mà phụng hành.

           + Chức vụ Lễ bộ: Tra khám các vụ kiện kêu lại ở Lễ phiên; các việc tế lễ, tiệc yến, tiệc mừng, thi cử, ấn phù, nhạc chương thì chiếu theo điều lệ mà phụng hành.

           + Chức vụ Binh bộ: Tra khám những vụ kiện về việc quân nhân tranh nhau ruộng khẩu phần, về việc che đậy suất lính, phúc lại những vụ kiện của Binh phiên; về việc cộng đồng với Binh phiên mà lượng số lính, và các việc cấp giao thẻ bài chạy trạm, thì chiếu theo điều lệ mà phụng hành.

           + Chức vụ Hình bộ: Tra khám những vụ kiện kêu lại ở Hình phiên và xét hỏi lại các việc tù đồ do các nha môn trong ngoài xử đoán. Việc xét lại ấy, nên theo sự lý của triều trước dặn bảo, như thấy án tù nặng giao xuống cho bàn lại, thì lập tức công đồng xét hỏi cần cho đúng thực tình làm cốt, đáng hình thì xử hình, đáng chuộc thì cho chuộc. Người nào dự hạng được chuộc, cho chuyển nộp tiền chuộc, mới được tha giam, đều hạn 10 ngày là cùng. Nếu để chậm trễ quá hạn và xét hỏi không công thì cho Hình khoa hặc trình, cứ tùy tình nặng nhẹ mà xử biếm phạt (điều này theo chuẩn định năm Dương Đức thứ 3 [1674]).

           + Chức vụ Công bộ: Tra khám những vụ kiện kêu lại ở Công phiên; về các việc chế tạo ban tứ thì đều chiếu theo điển lệ mà phụng hành.

Năm Chiêu Thống thứ 1 [1787] (lúc này, chúa Trịnh đã bị tiêu diệt vào năm 1786), bớt quan thuộc ở sáu phiên, các việc đều quy vào sáu bộ. Theo đó, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của sáu bộ bao gồm:

           + Chức vụ Lại bộ: chuyên giữ công việc trao quan phong tước, chọn bổ, xét hạch, thăng giáng và các việc điền bổ [chức khuyết], cấp cho [bổng lộc]

[9]
.

           + Chức vụ Hộ bộ: Giữ công việc về ruộng đất, hộ khẩu, phú thuế, thuế thổ sản, tiền thóc, kho tàng và việc lương bổng quan binh

[10]
.

           + Chức vụ Lễ bộ: Giữ công việc về lễ nghi, tế tự, tiệc mừng, tiệc yến, trường học, thi cử, áo mũ, ấn dấu, chương tấu, bài biểu, đi sứ, đi triều cận lại kiêm trông coi các ty thuộc tư thiên, y bốc cùng là tăng đạo, giáo phường, đồng văn, nhã nhạc

[11]
.

           + Chức vụ Binh bộ: Giữ công việc binh nhung, cấm vệ, xe ngựa, nghi trượng, khí giới và những việc dân biên giới, quân đóng trấn các trạm phố, các nơi hiểm yếu cùng những việc khẩn cấp

[12]
.

           + Chức vụ Hình bộ: Giữ mọi công việc về luật lệnh, hình pháp, xét lại các việc tù đày, kiện cáo, các việc nghiêm cấm

[13]
.

           + Chức vụ Công bộ: Giữ những công việc thành trì, cầu cống, đường sá, thợ thuyền, các việc sửa chữa xây dựng

[14]
.

3. “Lục bộ” dưới triều Nguyễn:

Đến triều Nguyễn, thông qua những ghi chép trong Khâm định Đại Nam Hội điển sự lệ thì chúng ta có thể biết được chi tiết về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Lục bộ.

           + Chức vụ Lại bộ

[15]
: Giữ những chính sự thăng giáng về quan văn trong kinh và ở các tỉnh, chỉnh đốn phương pháp làm quan để giúp chính sự trong nước.

           - Ty Văn Tuyển thanh lại: Chuyên giữ việc phẩm cấp quan chế thuyên bổ chức hàm và chương sớ phiếu nghĩ, làm các bản danh sách hộ giá, bồi tế, dự yến, kiểm soát danh sách quan hầu và khóa lương bổng, từ Tam phẩm trở lên.

           - Ty Trừng Trị thanh lại: Chuyên giữ các việc gia cấp kỷ lục, thưởng tự, giáng phạt, cấp tuất, cho nghỉ gia hạn và làm danh sách mãn khóa thăng thưởng từ Tứ phẩm trở xuống.

           - Ty Phong Điển thanh lại: Chuyên giữ việc phong tặng, tập ấm, làm những cáo bằng, cấp phát tra thư và làm cả danh sách mãn khóa thăng thưởng.

           - Ty Lại Ấn: Kính giữ ấn triện của bộ chi dùng việc công, tiếp nhận các chương sớ và tư trình đường quan chuyển giao cho các ty chiếu làm theo từng tháng mà báo tiêu.

           - Xứ Lại trực: Chuyên giữ viết phiếu, viết bài trình lên và viết tinh tả phiếu nghĩ, để chầu đóng ấn vàng.

           + Chức vụ Hộ bộ

[16]
: Nắm giữ các chính sách về điền thổ, hộ khẩu, tiền thóc trong nước bình chuẩn việc phát ra thu vào, để điều hòa nguồn của cải nhà nước.

           - Ty thanh lại Kinh trực: Chuyên giữ sớ, sổ sách ở Kinh trực.

           - Ty thanh lại Nam kỳ: Chuyên giữ giấy, sớ, sổ sách các tỉnh từ Bình Định trở vào Nam.

           - Ty thanh lại Bắc kỳ: Chuyên giữ giấy, sớ, sổ sách các tỉnh từ Hà Tĩnh trở ra Bắc.

           - Ty thanh lại thưởng lộc: Chuyên giữ việc chi cấp lương bổng, thưởng cấp tiền lương.

           - Ty thanh lại thuế hạng: Chuyên trách về thuế sản xuất và kinh phí mua sắm đồ vật ở các địa phương.

           - Ty hộ ấn, xứ hộ trực: giữ việc chi lương phân phái làm việc cho các ty.

           + Chức vụ Lễ bộ

[17]
: Giữ trật tự 5 lễ, hòa hài giữa thần và người, trên và dưới, để giúp việc lễ cho nước.

           - Ty Nghi văn thanh lại: Chuyên giữ về việc lễ Gia, lễ Quân và giữ con dấu, tiếp nhận tấu sớ công văn, trình lên đường quan, rồi chia giao cho các ty làm.

           - Ty Nhân tự thanh lại: Chuyên giữ về việc tế tự.

           - Ty Tân hưng thanh lại: Chuyên giữ những việc phong tặng các thần, cất nhắc hiền tài, lập nhà học, nêu khen những người hiếu hạnh, tiết nghĩa.

           - Ty Thù ứng thanh lại: Chuyên giữ điển lệ bang giao, triều cống.

           - Nhân viên phòng trực: Chuyên giữ việc dâng soạn phiến bài và hầu kim bảo.

           + Chức vụ Binh bộ

[18]
: Chuyên việc bổ nhiệm, tuyển dụng các chức võ trong ngạch, khảo duyệt khí giới, lương thực để giúp việc chính trị trong nước.

           - Ty Võ tuyển thanh lại: Chuyên giữ quan chế về võ giai trong ngành, phẩm trật, tuyển bổ, cấp cáo sắc, xem xét sổ quan lại cùng các việc tham cứu người nào đủ niên lệ, khảo công, xét thưởng.

           - Ty Kinh kỳ thanh lại: Chuyên lo cấp bổ quan chức ban võ trong kinh, hầu giá khi vua tuần du; điểm duyệt, diễn tập, đồn thú, Tuần phòng, phân phối, sai phái biền binh, cùng các việc ấn triện, công nhu ở Bộ đường.

           - Ty Trực tỉnh thanh lại: Chuyên lo cất bổ quan chức ban võ ở các tỉnh trực thuộc triều đình quản lý và các việc khảo duyệt, diễn tập sai phái biền binh.

           - Ty Khảo công thanh lại: Chuyên lo việc cất nhắc, thăng thưởng, xử trí, kiểm xét các ống thư ở trạm dịch và kiểm tra các việc làm của các đội trưởng.

           - Xứ Binh trực: Chuyên lo việc viết, dán phiếu bài, hầu đóng ấn vàng.

           + Chức vụ Hình bộ

[19]
: Giữ việc pháp luật, án từ để nghiêm phép nước.

           - Ty Thanh lại ở Kinh, trực kỳ: Phàm những chương sớ, hồ sơ việc án ở Kinh sư và phủ Thừa Thiên, tỉnh Quảng Nam, Quảng Ngãi về Tả trực kỳ, tỉnh Quảng Trị, Quảng Bình về Hữu trực kỳ đều do ty này phụ trách cả.

           - Ty Thanh lại ở Nam hiến: Các chương sớ, hồ sơ việc án của các tỉnh từ Bình Định trở vào Nam cho đến Nam kỳ đều do ty này trông coi cả.

           - Ty Thanh lại ở Bắc hiến: Phàm những chương sớ, hồ sơ việc án của các tỉnh từ Hà Tĩnh trở về Bắc cho đến Bắc kỳ đều do ty này trông coi cả.

           - Hình trực xứ ở ty Hình ấn: Chức giữ cũng giống như bộ Lại.

           + Chức vụ Công bộ

[20]
: Coi giữ việc thợ thuyền đồ dùng trong thiên hạ, phân biệt vật hạng, xét rõ tài liệu để sửa sang việc nước. Phàm có làm lăng tẩm, thành trì, đồn lũy, đê điều, cầu đường và bắt cấp thợ nung ngói gạch, xem xét đơn bằng các việc đều giữ cả.

           - Doanh thiện thanh lại ty: Coi giữ tất cả những việc sửa làm cung điện, nhà cửa, kho tàng, giải vũ.

           - Tu tạo thanh lại ty: Coi giữ các việc sửa làm các loại thuyền.

           - Công ấn ty, Công trực xứ: Chức giữ cũng như bộ Lại.


[1]
Ngô Sĩ Liên và các sử quan triều Hậu Lê – Viện Sử học (dịch), Đại Việt sử ký toàn thư (trọn bộ), NXB Thời đại, 2013, tr. 611.

[2]
PGS. TS. Nguyễn Minh Tường (chủ biên), Tổ chức bộ máy Nhà nước Việt Nam thời kỳ quân chủ (từ năm 939 đến năm 1884), NXB Khoa học xã hội, 2019, tr. 77.

[3]
Ngô Sĩ Liên và các sử quan triều Hậu Lê – Viện Sử học (dịch), Đại Việt sử ký toàn thư (trọn bộ), NXB Thời đại, 2013, tr. 664, tr. 666.

[4]
Phan Huy Chú – Viện Sử học (dịch), Lịch triều hiến chương loại chí (tập 1), NXB Giáo dục Việt Nam, 2007, tr. 542.

[5]
Samuel Baron – PGS. TS. Hoàng Anh Tuấn (dịch), Mô tả vương quốc Đàng Ngoài, NXB Khoa học xã hội, 2019, tr. 101.

[6]
Phan Huy Chú – Viện Sử học (dịch), Lịch triều hiến chương loại chí (tập 1), NXB Giáo dục Việt Nam, 2007, tr. 576 - 577.

[7]
Phan Huy Chú – Viện Sử học (dịch), Lịch triều hiến chương loại chí (tập 1), NXB Giáo dục Việt Nam, 2007, tr. 577.

[8]
Phan Huy Chú – Viện Sử học (dịch), Lịch triều hiến chương loại chí (tập 1), NXB Giáo dục Việt Nam, 2007, tr. 584 - 585.

[9]
Phan Huy Chú – Viện Sử học (dịch), Lịch triều hiến chương loại chí (tập 1), NXB Giáo dục Việt Nam, 2007, tr. 597.

[10]
Phan Huy Chú – Viện Sử học (dịch), Lịch triều hiến chương loại chí (tập 1), NXB Giáo dục Việt Nam, 2007, tr. 600.

[11]
Phan Huy Chú – Viện Sử học (dịch), Lịch triều hiến chương loại chí (tập 1), NXB Giáo dục Việt Nam, 2007, tr. 606.

[12]
Phan Huy Chú – Viện Sử học (dịch), Lịch triều hiến chương loại chí (tập 1), NXB Giáo dục Việt Nam, 2007, tr. 611.

[13]
Phan Huy Chú – Viện Sử học (dịch), Lịch triều hiến chương loại chí (tập 1), NXB Giáo dục Việt Nam, 2007, tr. 618.

[14]
Phan Huy Chú – Viện Sử học (dịch), Lịch triều hiến chương loại chí (tập 1), NXB Giáo dục Việt Nam, 2007, tr. 621.

[15]
Nội các triều Nguyễn – Viện Sử học (dịch), Khâm định Đại Nam Hội điển sự lệ (tập 2), NXB Thuận Hóa, 2005, tr. 13.

[16]
Nội các triều Nguyễn – Viện Sử học (dịch), Khâm định Đại Nam Hội điển sự lệ (tập 3), NXB Thuận Hóa, 2005, tr. 15.

[17]
Nội các triều Nguyễn – Viện Sử học (dịch), Khâm định Đại Nam Hội điển sự lệ (tập 4a), NXB Thuận Hóa, 2005, tr. 15.

[18]
Nội các triều Nguyễn – Viện Sử học (dịch), Khâm định Đại Nam Hội điển sự lệ (tập 5), NXB Thuận Hóa, 2005, tr. 17.

[19]
Nội các triều Nguyễn – Viện Sử học (dịch), Khâm định Đại Nam Hội điển sự lệ (tập 6), NXB Thuận Hóa, 2005, tr. 19.

[20]
Nội các triều Nguyễn – Viện Sử học (dịch), Khâm định Đại Nam Hội điển sự lệ (tập 7), NXB Thuận Hóa, 2005, tr. 9.


Ps: Ảnh là ảnh phục dựng mũ Cửu Long Thông Thiên - mũ đại triều của hoàng đế nhà Nguyễn. Mũ thường triều của hoàng đế nhà Nguyễn là mũ Cửu Long Đường Cân, mũ lễ phục của hoàng đế nhà Nguyễn là mũ Xuân Thu, mũ tế Giao của hoàng đế nhà Nguyễn là mũ miện 12 lưu 12 chương,mũ cày tịch điền của hoàng đế nhà Nguyễn là mũ Cửu Long kiểu Trung Quốc.

Mũ Cửu Long Thông Thiên
Từ khóa: 

tinh hoa việt nam

,

trung ương

,

lục bộ

,

triều nguyễn

,

bộ máy nhà nước

,

lịch sử