Làng nghề làm Tranh Kiếng ở Nam Bộ, người Khmer

  1. Nghệ thuật

  2. Văn hóa

làng nghề tranh kiếng Bà Vệ

Tranh kiếng của người Khmer ở Sóc Trăng

Tranh kiếng Cửu Huyền Thất Tổ

https://cdn.noron.vn/2021/08/25/615061293097868-1629895823.jpg

Gọi là tranh kiếng Bà Vệ bởi tương truyền nơi đây có một phụ nữ bán bánh và một số hàng nhật dụng cho những người qua lại đườngsông, Đó là Bà Vệ. Về sau nơi đây phát triển thành chợ, sau đó cái tên cũng gắn liền với địa danh lập ra làng nghề.

Thuở ấy, chợ Bà Vệ nằm trên cù lao Ông Chưởng (H.Chợ Mới, An Giang) lúc nào cũng nhộn nhịp cảnh nhà nhà làm, mua bán tranh kiếng. Dọc theo các ấp Long Thuận, Long Tân của xã Long Điền B lúc nào cũng tất bật bóng thợ tách, thợ sơn tranh. Dưới con kinh, ghe xuồng nổ máy tành tạch chờ lấy tranh đi phân phối ở các vùng nông thôn khắp nước.

https://cdn.noron.vn/2021/08/25/87132812611465223-1629895918.jpg

Ngày xưa, làm mấy ngày mới xong một bộ tranh, còn sau này nhiều người tậu máy in lụa màu kéo lên trên tấm kính một ngày có thể làm ra mấy trăm bức. Do đó, thợ sơn tranh đang sống khỏe bỗng nhiên thất nghiệp, rồi thợ tách cũng dần dần bị công nghệ đẩy lùi vào quên lãng. Bà Nguyệt nói ngày xưa làm tranh ít nên không đủ bán, từ ngày có máy in lụa màu trên tranh kiếng thì lượng tranh tung ra thị trường không tiêu thụ hết nên dội hàng, ế ẩm. Thấy thế, các chủ tiệm áp dụng nhiều mẫu mã mới trên tranh kiếng như tranh kiếng thư pháp, danh ngôn, lời hay ý đẹp... nhưng vẫn không được thị trường ưa chuộng.

https://cdn.noron.vn/2021/08/25/5395103505559312-1629897983.jpg

Theo lịch sử thì tranh kiếng đã có mặt ở cung đình Huế từ thời Minh Mạng – Thiệu Trị nhưng phải qua quá trình nhập khẩu khá rắc rối. Nghệ thuật vẽ tranh kiếng chỉ thực sự bắt đầu khi các di dân Quảng Đông đến lập nghiệp ở Chợ Lớn mở các tiệm kiếng, buôn bán các loại kiếng tráng thủy để soi mặt, lộng khuôn hình, tủ, khung cửa.

https://cdn.noron.vn/2021/08/25/5395103505559313-1629897993.jpg

Đến những năm 1920, nghề làm tranh kiếng chuyển địa bàn về vùng Lái Thiêu (Bình Dương) rồi phát triển thành một nghề thủ công lan tỏa khắp lục tỉnh, tạo thành ba làng nghề sản xuất tranh kiếng nổi tiếng nhất Nam kỳ là: Lái Thiêu (Bình Dương), Chợ Lớn (Sài Gòn) và Chợ Mới (An Giang). Cần nói thêm là Nam Bộ hồi đầu thế kỷ 20, tranh thờ chủ yếu là chạm gỗ, phù điêu sơn son thiếp vàng; các bài vị khắc chữ Hán; sản phẩm cẩn xà cừ, viết vẽ trên giấy hồng… Sự xuất hiện của tranh kiếng nhanh chóng được đón nhận nhờ giá rẻ, màu sắc tươi vui, phong cách vẽ mới lạ.

https://cdn.noron.vn/2021/08/25/87132812611465236-1629898052.jpg

Trước đây người thợ phải mất thời gian ba ngày để dùng cọ vẽ từng đường nét, điểm phá từng chi tiết của bức tranh, chọn màu phù hợp, chủ yếu là những màu tươi, sáng để bắt mắt, hợp tình và hợp ý người mê tranh kiếng, sau đến những công đoạn trang trí bên ngoài.

https://cdn.noron.vn/2021/08/25/615061293097883-1629898095.jpghttps://cdn.noron.vn/2021/08/25/trang2b442b2528125292b2528custom2529-1629899053.jpg

Về kỹ thuật, tranh kiếng là loại tranh vẽ phía sau mặt kiếng. Khi bắt đầu vẽ thì người thợ đặt tấm kiếng trên tờ giấy mẫu vẽ ngược, rồi dùng bút lông chấm mực vẽ đồ theo tờ giấy mẫu ấy, từ chuyên môn được gọi là “tách”. Người thợ tách phải có bàn tay khéo léo để nét bút được sắc sảo. Sau khi tách xong, người thợ chấm sơn tô màu theo quy định vào những ô đã tách và “tán” tức pha ô màu từ đậm tới lợt. Tô màu theo trình tự nhất định: vật thể tiền cảnh trước, hậu cảnh sau. Cuối cùng là màu phông. Rồi đem phơi khô. Sau khi tranh đã khô thì mới cẩn ốc xà cừ, dán vàng quỳ, tô nhũ kim, hay dán giấy trang kim vào phía sau bức tranh để tăng thêm phần rực rỡ. Sau cùng họ phủ thêm lớp sơn để bảo vệ rồi mới đặt vào khuôn gỗ đóng hậu, hoàn thành sản phẩm.

Sau, Cách mạng Tháng Tám bùng lên, thực dân Pháp tái chiếm Đông Dương. Đầu năm 1946, quân đội Anh-Pháp tiến chiếm Thủ Dầu Một (Bình Dương), lập đồn bót, bắt bớ dân lành. Nhà tiệm đóng cửa, chợ búa không nhóm, mọi ngành nghề đều ngưng hoạt động. Nghề làm tranh kiếng cũng không tránh khỏi ảnh hưởng đó. Qua Tết Bính Tuất 1946, hoạt động mua bán chợ Lái Thiêu mới hoạt động trở lại nhưng còn thưa vắng, giao thương khó khăn, trì trệ. Lúc bấy giờ, nguyên liệu để làm tranh kiếng rất khan hiếm. Đến thập niên 1950, tình hình tạm lắng, nhưng công việc làm tranh kiếng thì ế ẩm, song vẫn còn duy trì và phát tán ra các địa phương khác. Ở đây, nghề vẽ tranh kiếng vẫn được bảo lưu và duy trì bởi một số nhóm thợ vốn là học trò của những lớp nghệ nhân vẽ tranh kiếng tài hoa ngày trước, song không thịnh đạt như trước.

https://cdn.noron.vn/2021/08/25/615061293097885-1629898135.jpg

Điều rất dễ nhận thấy là tranh kiếng, tranh tường và tranh vẽ trên vải Khmer có sự tương đồng về chủ đề, hình tượng, phong cách tạo hình và thị hiếu về màu sắc. Chúng ta có thể xác định rằng tranh tường có điểm khởi phát trước nhất rồi mới đến tranh vải, và kế tiếp là tranh kiếng vì chất liệu kiếng/thủy tinh là rất hiếm vào thời xưa. Chỉ mới sau này, khi trình độ kỹ thuật phát triển con người mới tạo nên kiếng. Và những tấm kiếng này thời đó là rất quý hiếm. Phải đến gần đây thì kiếng mới sản xuất đại trà và việc vẽ tranh trên kiếng mới thịnh hành. Rồi khi tranh kiếng đã lần lượt giành lấy vị trí vốn có của các loại tranh thờ vẽ trên các chất liệu truyền thống, nó không ngừng khai thác kho tàng dữ liệu phong phú của di sản mỹ thuật Phật giáo Tiểu thừa cho sáng tác của mình. Do vậy mà ngày nay, tranh kiếng Khmer có đủ loại đề tài truyền thống, từ các kỳ tích của Đức Phật lịch sử đến các sự tích rút từ Phật thoại, kinh bổn sanh Jataka đến các bộ long thần, hộ pháp..., được thể hiện bằng kỹ pháp vẽ tranh dân gian đơn tuyến bình đồ với không gian phẳng hai chiều lẫn kỹ thuật vờn màu, tạo khối và cả tranh vẽ theo kỹ pháp hiện đại, xử lý tốt hiệu ứng ánh sáng tạo nên các bức tranh ba chiều sinh động.

https://cdn.noron.vn/2021/08/25/cvth20130815181deedf-ed1c-4330-b7a2-28a155936f6b-1629898668.JPG

Dòng tranh Chợ Lớn

Tranh kiếng người Hoa ở Chợ Lớn có lịch sử lâu đời nhất và trước hết, chúng đáp ứng nhu cầu văn hóa tín ngưỡng của cộng đồng người Hoa, người Minh Hương và kế đó là người Việt. Loại tranh sản xuất ở Chợ Lớn có đặc trưng thường dùng màu đỏ, dán giấy quỳ vàng, quỳ bạc và áp dụng kỹ thuật tráng thủy tạo nên những đường nét hay nền bức tranh thường ánh lên sắc sáng bạc tăng thêm phần lung linh. Ở kỹ thuật tráng thủy, trước tiên người thợ đổ một lớp sáp lỏng lên mặt sau của tấm kiếng, chờ sáp khô rồi khắc những đường nét muốn tráng thủy lên. Việc khắc vẽ này là tạo nét đường viền, trang trí hay nhằm cạo sạch lớp sáp để tráng thủy: thực hiện phản ứng hóa học giống như phản ứng tráng gương. Dòng tranh Chợ Lớn luôn tiếp nhận những kỹ thuật mới nên có nhiều cải tiến, áp dụng các kỹ pháp tạo hình đa dạng. Đó là đặc trưng khác biệt với các dòng tranh khác. Cái hay của tranh kiếng Chợ Lớn là sự tân kỳ, song về giá trị mỹ thuật lại giảm sút, nặng về kỹ thuật.

https://4.bp.blogspot.com/-w18rm8KXqjE/W5CQdfhwHkI/AAAAAAAB3Hc/etoZGUb1fYgbroF3aq0z3bYQFZq3l5j8ACEwYBhgL/s1600/trang%2B44%2B%25282%2529%2B%2528Custom%2529.JPG

Dòng tranh kiếng Chợ Lớn chủ vào tranh chúc tụng và tranh thờ. Loại tranh khánh chúc rất đa dạng về chủ đề cũng như kiểu thức thể hiện. Chúng thường được tặng vào dịp lễ Tết, mừng thọ, mừng tân gia, khai trương các tiệm quán, cơ sở kinh doanh, sản xuất.... như tranh Ngư ông đắc lợi với lời chúc Niên Niên đại lợi tặng vào dịp khai trương công việc làm ăn, cốt chúc cho chủ đạt được thành công, gặt hái nhiều lợi lộc. Còn tranh Bát Tiên biểu thị cho những điều chúc lành. Tranh Mã đáo thành công hàm ý chúc người được tặng gặt hái được thành công trong công việc, sự nghiệp...

Tranh Ngũ lộ tài thần thể hiện năm vị thần tài cùng câu chúc Chiêu tài tiến bảo nhằm mong cầu giàu sang, phát tài.Đây vừa là tranh khánh chúc vừa là tranh thờ. Loại tranh thờ, phổ biến là tranh kiếng vẽ đức Phật Thích Ca Mâu Ni, tranh thờ Bồ tát cùng rất nhiều đề tài hỗn hợp về các vị thần linh Hoa, Việt như Nhị phủ Bổn Đầu Công, Quan Thánh Đế Quân, Huê Quang Đại Đế, Thiên Hậu Thánh Mẫu, Ngọc Hoàng Thượng Đế, Lão Tử... Quan Thánh Đế quân tức Quan Công, một nhân vật đời Tam Quốc, được coi là một võ quan trung nghĩa. Dân gian tin tưởng Quan Đế có đầy đủ vạn năng uy lực nên được xác tín là “Vạn Năng thần”.

Tranh Quan Thánh Đế vẽ mỗi Quan Công và đa phần có tùng tự Quan Bình và Châu Xương. Bộ ba Quan Đế, Quan Bình, Châu Xương tích hợp với Vương Thiên Quân và Trương Tiên Đại Đế trở thành tranh Ngũ Công Vương Phật, gồm các đối tượng đồng quyền năng tạo nên một sức mạnh phù trợ đa năng, nhiều uy lực.

Các tranh thờ nữ thần rất phong phú. Bà Chúa Ngọc, Chúa Tiên là các thần độ mạng phổ biến, chiếm tỷ lệ lớn trong số lượng tranh kiếng Chợ Lớn. Các nữ thần bản xứ như bà Chúa Xứ (Châu Đốc), Linh Sơn Thánh Mẫu (Tây Ninh) cũng được vẽ làm loại tranh thờ trên kiếng.

Tranh Ông Táo là một loại tranh thờ phổ biến khác. Ở Nam Bộ, tranh thờ Ông Táo gồm Táo Quân và hai phụ tá: Tả Mạng thần quan có trách nhiệm ghi công đức của chủ nhà và Hữu Mạng thần quan ghi chép tội lỗi của chủ nhà để Táo Quân có chứng cớ tâu báo với Ngọc Hoàng mỗi dịp về trời vào ngày 23 tháng Chạp hằng năm.Đặc trưng của dòng tranh kiếng Chợ Lớn là đề tài phong phú, đa tạp được thể hiện bằng nhiều kỹ pháp tân kỳ.

Từ khóa: 

nghệ thuật

,

văn hóa