Nghề nuôi giun đất, giun quế

  1. Nông nghiệp

https://cdn.noron.vn/2021/08/22/5395151651087416-1629615354.jpg

(*) Đảm bảo độ thoáng mát:

- Chọn nơi đất cao ráo, thoáng mát, không bị ngập úng vào mùa mưa, thoát nước, thoát nhiệt tốt

- Có thể đặt trại nuôi giun ở dưới tán cây bóng mát, tán cây công nghiệp hay cây ăn quả vì đảm bảo được độ ẩm vào mùa nắng nóng.

- Có nguồn nước tưới thường xuyên, trung tính, sạch.

(*) Diện tích chuồng nuôi

- Tùy điều kiện, số lượng giun giống, diện tích đất khác nhau mà ta có thể thiết kế chuồng trại sao cho phù hợp.

- Tường xây cao 30 – 40 cm, rộng 1,2-1,8 m, dài tùy theo diện tích cần xây.

- Có thể xây 1 dãy chạy dài hoặc xây nhiều dãy liền nhau với lối đi ở giữa rộng 0,7m.

- Nền chuồng nuôi giun ta có thể đổ bê tông chất lượng thấp và không cần lỗ thoát nước. Nếu nền đất cứng không cần phải lát nền.

- Mái che: Mái che để che nắng che mưa cho giun. Mái che có thể là rơm rạ, tấm bìa, ni lông đều được. Mái che nên cách mặt luống từ 1,5m trở lên nếu thấp quá khó cho việc chăm sóc và thu hoạch. Nếu cao quá sẽ bị mưa hắt vào.

(*) Lưu ý: Mật độ thả giun giống: Khoảng 7-10 sinh khối/1m2

Theo nhiều tài liệu, trên thế giới có tới 3.000 loài giun đất. Chúng phân bố rộng khắp trên địa cầu. Ở Việt Nam, theo Trung tâm nghiên cứu động vật đất (Trường Đại học Sư phạm Hà Nội) thì chúng ta đã tìm ra trên 170 loài. Chúng phân bố rất rộng và có nhiều đặc tính khác nhau. Một số loài sống trong nước, còn đa số sống trong những nơi đất ẩm hoặc những chỗ có thảm thực vật dày. Có những loài rất nhỏ, cơ thể chỉ nặng 10mg. Tuy nhiên, điều mà bà con ta quan tâm nhất là nên nuôi loài giun đất nào. Vào mùa mưa hoặc những hôm trở trời, thường thấy có những con giun lớn bò lên mặt đất. Chúng to bằng ngón tay út và dài như chiếc đũa. Người ta gọi đó là giun khoang. Suốt ngày chúng đào bới trong đất để kiếm thức ăn. Hoạt động đó làm cho đất tơi xốp và tạo nhiều biến đổi có lợi cho cây trồng. Cơ thể gium là một ống tròn, một đầu là miệng và đầu kia là hậu môn.

Chúng ngoạm đất vào mồm rồi nuốt chửng. Khi đi qua ống tiêu hóa, các chất hữu cơ, chất mùn sẽ được chúng đồng hóa, hấp thụ. Sau đó, các chất còn lại sẽ bị tống ra ngoài qua hậu môn. Đó là phân giun. Phân giun là một loại đất rất tốt. Chúng tơi xốp và giữ được ẩm. Mặt khác, các dạng phân lân và phân kali khó tiêu, sau khi đi qua bụng giun đã trở thành những dạng dễ tiêu mà cây hấp thụ được. Tuy nhiên, Loài giun này chưa phải là đối tượng để nuôi. Các loài giun đất dùng để nuôi phải có hàm lượng đạm cao, có tốc độ sinh trưởng nhanh, sống được trong các điều kiện chật hẹp và mau chống thích nghi với những môi trường mới.Trong hàng nghìn loài giun, người ta chỉ tìm được 6 – 7 loài nên nuôi

Loài giun quế còn gọi là giun mồi câu hay giun đỏ. Chúng có hàm lượng đạm rất cao. Theo nhiều tài liệu, trong cơ thể chúng, đạm chiếm tới 70% trọng lượng khô. Có lẽ vì thế mà nó trở thành loại mồi câu hấp dẫn. Chúng thường ẩn nấu dưới các hòn gạch, hòn đá, các miếng gỗ hoặc ngay dưới các lớp phân, rãnh nước cạnh các chuồng lợn hoặc chuồng trâu. Chúng có thân hình nhỏ, dài khoảng 10 – 15cm, thân mảnh như que đan len và có màu nâu tím, ánh bạc. Chúng rất năng động, chui luồn rất nhanh. Hai đầu nhọn, thân hơi dẹp. Nếu đếm kỹ ta thấy nó có tới 120 đốt. Phía gần đầu có một cái đai. Người ta gọi đó là đai sinh dục. Đại này nằm ở đoạn từ đốt thứ 18 đến đốt thứ 22.

Giun quế là loại giun đất ăn phân. Chúng có thể hoàn toàn sống trong phân mà không cần một tý đất nào. Trong những năm qua, chúng tôi đã theo dõi và khẳng định rằng, nuôi chúng trong môi trường toàn phân là tốt nhất. Chúng thích ăn nhất là phân của các loại đại gia súc như trâu, bò, ngựa. Phân lợn chúng cũng ăn nhưng không hấp dẫn bằng các loại phân trên. Phân gà công nghiệp có thể dùng để nuôi chúng nhưng phân gà nuôi thông thường thì không nên vì hàm lượng lân có trong phân gà ta quá cao. Ngoài ra, các phụ phẩm nông nghiệp như thân, lá các loại cây không độc, không có tinh dầu cũng có thể ủ để cho giun ăn. Giun quế là loài ăn tạp. Tuy nhiên, thức ăn chính của chúng vẫn là phân gia súc. Giun quế sinh sản rất nhanh. Trong điều kiện thuận lợi, chúng tăng theo cấp số nhân. Tuy cơ thể của chúng không lớn nhưng số lượng lại nhiều nên sinh khối tạo ra rất đáng kể. Vì vậy, nuôi giun quế làm thức ăn cho gia súc, gia cầm và các loài thủy sản là rất hợp lý.

Cơ thể giun quế như một cái ống có 2 lớp: lớp ngoài là thành cơ và lớp trong là ruột. Giữa 2 lớp có chứa một dịch lỏng gọi là dịch thể xoang. Lớp cơ lại có 2 lớp: lớp cơ vòng và lớp cơ dọc. Hai lớp cơ này hoạt động nhịp nhàng, giúp giun bò rất nhanh. Lớp bên trong của giun hoàn toàn là một ống tiêu hóa. Trong ống tiêu hóa này chứa đầy các hệ vi sinh vật cần thiết. Bản thân con giun không đủ sức chuyển hóa trực tiếp các chất hữu cơ thành năng lượng. Chính các hệ vi sinh vật có trong ống tiêu hóa của chúng đã đảm nhận công việc này. Giun không có phổi. Nó hô hấp qua da. Nếu da bị khô là giun chết. Vì vậy, giun luôn sống ở nơi ẩm ướt. Nếu phải đi lại trên mặt đất thì nó cũng phải chờ tới quá nửa đêm – khi sương xuống mới dám bò lên. Vào những hôm mưa rào, ta cũng thấy giun ngoi lên mặt đất. Vì sao vậy? Chắc rằng bùn nhão đã bám chặt quanh cơ thể của chúng, cản trở sự hô hấp nên nó phải tháo chạy. Đây đã thành một bản năng. Vì vậy, khi nuôi giun phải tránh để mưa xối vào luống nuôi. Hệ thần kinh của giun chưa phát triển nhiều. Tuy nhiên, các tế bào thụ cảm cũng giúp chúng nhận biết ánh sáng, nhiệt độ, áp suất khí quyển và những dấu hiệu của thời tiết. Nó không có mắt, mũi, tai nên các tế bào thụ cảm nằm rải rác trên cơ thể phải làm thay. Chúng "đoán" thời tiết rất giỏi. Hễ sắp có giông bão, là họ hàng nhà giun ngoi lên mặt đất và bỏ chạy toán loạn. Người nuôi giun phải dè chừng trường hợp này để chủ động ngăn chặn.

Khả năng "ngửi" của giun kém. Tuy nhiên, chúng cũng phân biệt được các loại thức ăn khác nhau. Trong một luống nuôi, giun cũng có thể tím tới những chỗ có thức ăn ngon hơn. Chúng tôi đã tiến hành nhiều thí nghiệm và nhận ra rằng, chỉ cần 4 tiếng đồng hồ (trong điều kiện tối và ẩm) giun sẽ tập kết đến những chỗ có thức ăn mà chúng cho là ngon nhất. Giun là loại lưỡng tính. Trên mỗi con giun đều có cả bộ phận sinh dục đực (tinh hoàn) và bộ phận sinh dục cái (buồng trướng). Rất tiếc tạo hóa lại "quên" không bố trí cho chúng một ống dẫn giữa yếu tố đực tới yếu tố cái. Vì vậy các "của quý" không tới gặp được nhau. Do đó, muốnsinh sản, giun phải quấn nhau. Khi đó yếu tố đực của con này sẽ chuyển tới yếu tố cái của con kia và ngược lại. Chúng ta quan sát sẽ thấy từ đốt 18 tới đốt 22 của giun quế có một đai. Người ta gọi đó là đai sinh dục. Đai sinh dục có màu nhạt hơn cơ thể. Chúng hình thành khi giun trưởng thành. Ở các đốt thứ 6, thứ 7 và thứ 8 có 3 đôi lỗ nhận tinh mở ra ở mặt bụng. Còn ở đốt thứ 18 thì có 2 lỗ đực. Rõ ràng, các bộ phận đực, cái lại nằm xa nhau. Tuy nhiên, chúng đều nằm ở nữa đầu của cơ thể. Các tế bào đực hình thành trong 2 cặp tinh hoàn (hình bầu dục, màu vàng nhạt) và thông với túi chứa tinh. Sau khi thành thục, tế bào đực sẽ đi qua phễu dẫn tinh để toái 2 lỗ đực.

Trong tự nhiên, chờ khi sương đêm đã xuống, giun mới bò lên mặt đất để đi tìm nhau. Chúng tiến sát đến nhau theo hướng ngược chiều, con này gối lên con kia, bụng sát bụng. Lúc này, cả hai đều tiết ra dịch nhầy để hỗ trợ cho việc "yêu nhau". Con nào cũng hoạt động như một con đực. Chúng co cơ để tiết tinh dịch và đẩy tinh dịch vào túi nhận tinh của con kia. Khi hoàn thành nhiệm vụ, chúng từ từ tách ra khỏi nhau. Tinh trùng sẽ nằm trong túi nhận tinh mà không được thụ tinh ngay. Vì sao vậy? Vì rằng, ở giun, trứng lại chín chậm hơn vài ngày so với sự thành thục của tinh trùng. Dịch nhầy tiết ra tạo thành một vòng. Khi vòng nhầy bong ra, nó sẽ tuột lên phía trước. Lúc đi qua lỗ cái, nó sẽ nhận một ít trứng chín. Còn khi đi qua cặp túi nhận tinh, nó sẽ nhận tinh trùng mà "đối phương" đã "gửi" từ đó trước. Sự thụ tinh sẽ xảy ra ngay trên vòng nhầy. Vòng nhầy tuột tiếp lên phía trước và rơi ra ngoài. Lúc này, nó tự thắt hai đầu lại để thành kén. Kén có màu nâu và chuyển dần thành màu nâu sẫm. Khi sắp nở, nó lại chuyển thành màu xám đen có hình ô van. Mỗi kén có từ 1 – 20 trứng (trung bình là 7 trứng). Sau 2 – 3 tuần, giun non tự cắn thủng kén để ra ngoài. Chúng nhỏ xíu, chỉ dài độ 6 – 10mm. Chúng hoạt động ngay, ăn rất khỏe. Chỉ sau tháng rưỡi đến hai tháng là đai sinh dục bắt đầu hình thành. Tuy nhiên, chúng chỉ thực sự thành thục sau 3 – 4 tháng.

Giun đẻ rất khỏe. Thường thường, mỗi tuần đẻ 1 lần và 3 tuần sau kén nở, 3 tháng sau thành giun trưởng thành. Giun mẹ sống tới 12 năm và vẫn đẻ. Vì vậy, tất cả các thế hệ từ cụ, kỵ, ông, cha, cháu, chắt, chút, chít,... đều đẻ. Chúng tăng đàn theo cấp số nhân. Khi nuôi, ta ngạc nhiên vì tốc độ tăng đàn phi thường này. Đây cũng là tính ưu việt của giun quế. Rõ ràng, nhờ đặc điểm này mà từ phân trâu, bò, phân gia súc ta có thể tạo ra vô vàn giun quế - nguồn đạm động vật quý giá để cung cấp cho các loài vật nuôi trong gia đình. Đây là điều mà nông dân nào cũng cần lưu tâm.

Từ khóa: 

nông nghiệp