Nông nghiệp thủy canh đô thị

  1. Nông nghiệp

  2. Kinh doanh và Khởi nghiệp

  3. Khởi nghiệp

  4. Kiến trúc

  5. Sinh vật cảnh

https://cdn.noron.vn/2021/09/03/94552889511054994-1630673805_1024.png

Chương trình của giáo sư Fujimoto là một phần của xu hướng ứng dụng hydroponics - kỹ thuật trồng cây trong nước dồi dào dưỡng chất thay vì trong đất - để đưa nông nghiệp vào các thành phố lớn. Với ưu điểm cần ít nước và đất hơn so với phương pháp canh tác truyền thống, hydroponics được Fujimoto và nhiều nhà nghiên-cứu-kiêm-nhà-vườn ở Mỹ xem là giải pháp lý tưởng đưa nông nghiệp vào các chung cư cao tầng, mái nhà và những khoảnh đất trống. Sau một thời gian dài bị lép vế trước các phương pháp canh tác truyền thống, hydroponics đang thu hút sự quan tâm của giới nghiên cứu và các chuyên gia y tế cộng đồng. Giảm thiểu tác động môi trường của việc dùng xe tải chuyên chở nông sản từ nông thôn lên thành thị; hạn chế tình trạng khai thác đất hoang hóa để canh tác cây lương thực nuôi dân số thế giới gia tăng cũng như loại bỏ nguy cơ lây nhiễm khuẩn trong hệ sinh vật là những ưu điểm khi lập trang trại hydroponics ở thành thị.Rễ cây (ăn trái) và rau cải được trồng bằng kỹ thuật hydroponics có thể tiếp xúc trực tiếp với nước hoặc được trồng trong miếng bọt biển hoặc xơ dừa. Nước tưới được bơm thông qua hệ thống cảm biến tinh vi có thể tự điều chỉnh nồng độ dưỡng chất và axít trong nước. Phương pháp này thường được áp dụng cho những loại cây rau ngắn ngày và có thể trồng quanh năm trong nhà kính dưới điều kiện ánh sáng và nhiệt độ phù hợp, như xà lách búp, cà chua... Hiện nay, nhà kính trồng rau áp dụng kỹ thuật hydroponics của tập đoàn Eurofresh ở bang Arizona được xem là có quy mô lớn nhất nước Mỹ. Năm ngoái, trang trại rộng 110 héc-ta này sản xuất hơn 90.000 tấn cà chua.Ở bang Ohio, nóc Bệnh viện Toledo được trưng dụng để trồng trên 90 kg rau cải trong những chiếc xô chứa mụn dừa gồm cà chua, ớt, đậu xanh và rau có lá phục vụ bệnh nhân và tặng cho bếp ăn từ thiện kế bên. Trong khi đó, các trường học ở New York đang tham gia chương trình do Đại học Cornell chủ xị, theo đó học sinh trồng xà lách búp trên mái trường và bán lại cho chuỗi siêu thị Gristedes.

Ðiển hình như mô hình trồng rau thủy canh của gia đình chị Ðặng Thùy Linh, tổ dân phố 2, phường Nam Thanh (TP. Ðiện Biên Phủ) được đặt trên sân thượng của ngôi nhà 3 tầng. Chỉ khoảng 80m2, nhưng chị đã dựng được 5 giàn rau với gần 3.000 gốc, 2 giàn cây ăn quả.

Ví dụ như hệ thống của nhà chị Linh bao gồm 5 giàn với gần 3.000 gốc, 2 giàn cây ăn quả, nhà màng theo tiêu chuẩn chắn được mưa, côn trùng nhưng vẫn đảm bảo hấp thụ 100% ánh nắng... đầu tư gần 100 triệu đồng. Nhưng với quy mô hộ nhỏ thì chỉ cần khoảng 1 giàn 200 gốc rau với chi phí thiết bị chỉ khoảng 5 - 6 triệu đồng có thể đáp ứng đủ lượng rau xanh cho gia đình sử dụng.

Ngay cả trong không gian hạn chế, các khu vườn siêu nhỏ có thể mang lại hiệu quả rất cao. Ví dụ, có thể sản xuất khoảng 30kg cà chua mỗi năm từ diện tích 1m²!

Vườn siêu nhỏ cũng có nhiều lợi ích môi trường khác: chúng có thể cung cấp môi trường sống cho chim và côn trùng và hấp thụ CO₂ từ không khí, giảm ô nhiễm.

Thật vậy, nếu tất cả không gian mái nhà thích hợp ở Bologna, Ý, được sử dụng cho nông nghiệp đô thị, khoảng 624 tấn \definition {CO₂}{CO2} có thể được thu giữ hàng năm và có thể trồng đủ rau để cung cấp cho hơn 3/4 dân số thành phố!

Để đảm bảo nguồn cung cấp nước thường xuyên, các máng xối, đường ống, và các nút dẫn nước có thể được sử dụng để dẫn nước mưa mà nếu không sẽ bị lãng phí cho cây trồng. Chất thải thực phẩm cũng có thể được tái chế và sử dụng như phân bón để bón phân cây trồng.

Tuy nhiên, không phải ai cũng có ban công hoặc sân trong, và việc thiết lập một khu vườn trên mái có thể tốn kém. Trong khi người dân ở các thành phố tranh giành từng mét không gian ngoài trời, thì những khu vực rộng lớn của không gian trong nhà lại bị bỏ hoang. Điều gì sẽ xảy ra nếu chúng ta cũng có thể trồng thực phẩm ở những khu vực này?

Làm nông nghiệp ngoài trời dễ bị tổn thương trước các hiện tượng thời tiết khắc nghiệt, điều sẽ chỉ gia tăng khi biến đổi khí hậu. Ngược lại, các hệ thống canh tác trong nhà cho phép các điều kiện phát triển lý tưởng, bao gồm ánh sáng, nhiệt độ và cung cấp chất dinh dưỡng quanh năm. Tại sao điều này lại hữu ích?

Cây trồng có thể được xếp chồng lên nhau thành nhiều lớp để có thể trồng được nhiều cây hơn trong một không gian nhỏ. Điều này được gọi là canh tác theo chiều dọc. Các trang trại theo chiều thẳng đứng có thể được thiết lập ở hầu hết mọi nơi: trong các tòa nhà văn phòng, dưới lòng đất, trong các container vận chuyển, và thậm chí trong vũ trụ!

https://cdn.noron.vn/2021/09/03/5395319428572674-1630674568_1024.pnghttps://cdn.noron.vn/2021/09/03/5395319428572673-1630674555_1024.pnghttps://cdn.noron.vn/2021/09/03/5395319428572672-1630674545_1024.pnghttps://cdn.noron.vn/2021/09/03/40983149814970903-1630674534_1024.pnghttps://cdn.noron.vn/2021/09/03/94552889511054999-1630674523_1024.pnghttps://cdn.noron.vn/2021/09/03/40983149814970902-1630674512_1024.png

Những người sản xuất ở diện tích nhỏ cũng có thể tự cung cấp sản phẩm và bán lượng dư thừa ra thị trường, tăng thu nhập. Sản phẩm từ NNĐT còn giúp người dân đô thị sử dụng được thức ăn tươi, không sợ bị hư hỏng do phải cung cấp từ các nơi xa. Với những phương thức như thủy canh, canh tác trên các giá thể không phải đất, nhiều sản phẩm từ mô hình này có thể tạo ra giá trị dinh dưỡng cao, làm gia tăng giá trị sản phẩm nông nghiệp.Loại hình nông nghiệp này cũng sẽ tạo thêm việc làm cho một bộ phân cư dân. Ước tính hiện có khoảng 800 triệu dân cư trên thế giới kiếm sống nhờ sản xuất thức ăn, lương thực từ NNĐT. Ngoài ra, hình thức nông nghiệp này còn tạo cơ hội liên kết với các doanh nghiệp chế biến quy mô nhỏ sản xuất những thực phẩm cao cấp có giá trị dinh dưỡng cao, có thể xuất khẩu.

Khái niệm nông nghiệp đô thị (NNĐT) được đề cập khoảng 20 năm trở lại đây ở các nước phát triển, cùng với chủ đề phát triển bền vững. NNĐT được hiểu là việc sử dụng các diện tích nhỏ, các lô đất trống, sân vườn, thảm cỏ, ban công, sân thượng… trong các thành phố lớn để trồng cây hoặc chăn nuôi gia cầm, gia súc nhỏ phù hợp với điều kiện đất đai, khí hậu, thủy văn, bảo đảm sự cân bằng sinh thái, tạo hiệu quả sản xuất, hiệu quả kinh tế, đồng thời góp phần nâng cao chất lượng môi trường…, sau đó, toàn bộ, hay một phần sản phẩm, được thương mại hóa.

Được sản xuất và phân phối tại chỗ nên thực phẩm từ NNĐT ít tốn phí vận chuyển, đóng gói và lưu trữ, tỉ lệ hao hụt do lưu trữ - vận chuyển giảm; tươi ngon, giàu dinh dưỡng và có giá cạnh tranh do giảm được các nấc trung gian; chi phí sản xuất thấp và phát thải CO2 cũng giảm.

Đô thị hóa đã thu hẹp diện tích đất nông nghiệp, làm tăng số lượng cư dân thành phố; biến đổi khí hậu tác động mạnh đến điều kiện canh tác, nhiệt độ tăng và lượng mưa thay đổi thất thường ảnh hưởng nặng nề đến mùa vụ... đã tạo điều kiện cho NNĐT phát triển ở nhiều nơi trên thế giới.

Tại Cairo, đầu thập kỷ 1990, một nhóm giáo sư nông nghiệp phát triển phương pháp trồng rau trên sân thượng tại khu vực đô thị đông dân, sau đó, được mở rộng nhanh khi có hậu thuẫn chính thức của FAO vào năm 2001. Tại Mumbai - một trong các thành phố có mật độ dân cao nhất thế giới, người dân làm vườn hữu cơ quy mô nhỏ trên cơ sở dùng bã mía trộn đất đựng trong túi nhựa hay trong các loại hộp, ống, lốp xe, treo trên ban công, thậm chí trên tường, để có rau ăn tại gia và tăng thu nhập. Hộ gia đình có thể tự túc được 5 kg rau quả mỗi ngày trong 300 ngày của năm.

Ở Trung Quốc, tại nhiều thành phố lớn của nước này, NNĐT và ven đô cung cấp tới 85% nhu cầu về rau xanh, 50% về thịt trứng của người dân. Riêng Thượng Hải dùng đến 60% rau, 90% trứng và có 800.000 việc làm từ NNĐT; Bắc Kinh thu 271 triệu USD mỗi năm nhờ khai thác du lịch từ NNĐT.

Cuba phát triển mạnh mẽ NNĐT để cung ứng thực phẩm tươi sống tại chỗ cho cư dân đô thị, nhờ đó thủ đô Havana đã tự túc được đến 90% loại thực phẩm này. Năm 2008 có hơn 20 vạn thị dân Cuba làm việc trong ngành này, sử dụng 140 km2 đất đô thị. Các học giả phương Tây vẫn coi Havana như một hình mẫu thành công của NNĐT và quản lý đô thị của thế giới.

NNĐT thường có quy mô nhỏ, nhưng lại dễ dàng tiếp cận công nghệ, quản lý sâu bệnh, phân bón, nước tưới,…và giàu tiềm năng về đầu tư, chăm sóc, nên thường cho năng suất cao (cao hơn so với vùng nông thôn 15 lần, 1 m2 diện tích có thể cung cấp 20 kg thực phẩm mỗi năm).

Theo Michael Hamm - Giáo sư về nông nghiệp bền vững Đại học Michigan, với hơn 100.000 khoảng đất trống, bằng công nghệ sinh học, có thể đáp ứng 3/4 lượng rau và gần 1/2 lượng quả đối với nhu cầu tiêu thụ của một thành phố 700.000 dân. NNĐT nếu được tổ chức tốt, sẽ tạo ra nguồn thực phẩm tươi sống và an toàn - điều thật sự có ý nghĩa hiện nay - khi yêu cầu về thực phẩm ngày càng tăng về số lượng lẫn chất lượng.

Kinh nghiệm nhiều nước cho thấy, NNĐT và ven đô có thể góp phần đảm bảo lương thực tươi sống cho người dân, giúp người tiêu dùng nghèo tiếp cận thức ăn rẽ tiền từ các hộ sản xuất và từ các chợ gần. Những người sản xuất trên diện tích nhỏ cũng có thể tự cung cấp sản phẩm và bán lượng dư thừa ra thị trường để tăng thu nhập.

Ước tính, trên thế giới hiện có khoảng 800 triệu người kiếm sống nhờ sản xuất thức ăn, lương thực từ NNĐT. Khi có thảm họa, việc tự cung cấp lương thực sạch rất quan trọng và những không gian mở ở đô thị như đất nông nghiệp có thể được sử dụng làm nơi cấp cứu, hay điểm định cư tạm thời.

NNĐT còn có khả năng phát triển theo các mô hình chuyên biệt để cung ứng nhiều dịch vụ cho đô thị như cung cấp cây xanh, hoa tươi và thực phẩm cho khách sạn, cung ứng dịch vụ du lịch, dịch vụ an dưỡng... NNĐT cũng có thể tái sử dụng chất thải đô thị để làm phân bón, nước tưới..., góp phần quan trọng để giảm ô nhiễm môi trường.

So với canh tác truyền thống, NNĐT hiệu quả hơn; bền vững hơn; sản phẩm hữu cơ trở nên dễ tiếp cận hơn; tạo không gian nhỏ thân thiện; cho phép thưởng thức sản phẩm tươi sống quanh năm, và đơn giản. NNĐT đã và đang góp phần rất lớn trong việc tham gia giải quyết các vấn đề khó khăn của các quốc gia trong quá trình đô thị hóa. NNĐT sẽ tiếp tục là giải pháp và là hướng đi chiến lược cho sự phát triển nhanh, bền vững của các đô thị sinh thái trong tương lai./.


1. Nông nghiệp đô thị và tầm quan trọng1.1. Khái niệm về nông nghiệp đô thị và không gian nông nghiệp đô thị– Nông nghiệp đô thị (NNĐT):+ Khái niệm của Jac Smit: năm 1990, Jac Smit đưa ra khái niệm về NNĐT, được xem là một trong những khái niệm đầu tiên của lĩnh vực này trên thế giới. Ông cho rằng: NNĐT là một ngành sản xuất, chế biến và bán thực phẩm và nhiên liệu, chủ yếu là để đáp ứng nhu cầu hàng ngày của người tiêu dùng trong một thị trấn, thành phố, hay đô thị, dựa trên đất và nước có trên khắp đô thị và ven đô thị, áp dụng các phương pháp sản xuất chuyên canh, sử dụng và tái sử dụng tài nguyên thiên nhiên và chất thải đô thị để trồng đa vụ và lam đa dạng chăn nuôi. Theo đó, NNĐT được xem là một ngành sản xuất, phân biệt theo vị trí địa lý (vùng ven, trung tâm), chú trọng vào sản phẩm và phương pháp canh tác nông nghiệp.

+ Theo UNDP (1996): Nông nghiệp đô thị hoạt động sản xuất các loại thực phẩm và các sản phẩm nông nghiệp khác, dựa trên quỹ đất và nguồn nước ở khu vực đô thị và các vùng ngoại vi, ứng dụng các phương pháp sản xuất chuyên canh, sử dụng (hoặc tái sử dụng) các nguyên liệu tự nhiên và chất thải đô thị.

+ Theo FAO-COAG (1999): Nông nghiệp đô thị và ngoại vi đô thị đó là các hoạt động nông nghiệp xảy ra bên trong và xung quanh các thành phố, sử dụng toàn bộ các nguồn lực tự nhiên (đất, nước, năng lượng, lao động, …) cũng như từ các dịch vụ cung ứng cho các mục đích khác để đáp ứng cho nhu cầu của dân cư đô thị. Các yếu tố quan trọng của nông nghiệp đô thị và ngoại vi đô thị bao gồm: làm vườn, chăn nuôi, thủy sản, lâm nghiệp.

Không gian NNĐT:Là không gian đô thị chưa đựng tất cả hoạt động có liên quan đến NNĐT, được gọi là không gian đa chức năng trong hoạt động NNĐT. Không gian đô thị bao gồm yếu tố NNĐT, có thể hiểu là không gian bao gồm các vật thể kiến trúc, cây xanh, mặt nước và hoạt động chăn nuôi, trồng trọt, thích hợp trong môi trường đô thị có tác động trực tiếp đến cảnh quan đô thị. Như vậy có thể xem không gian NNĐT bao gồm cảnh quan đô thị truyền thống và cảnh quan đô thị sản xuất.

1.2. Tầm quan trọng của nông nghiệp đô thịNông nghiệp đô thị ngoài việc cung cấp lượng thực, thực phẩm còn có cả tác động làm giảm tiêu cực của quá trình đô thị hóa khu vực vùng ven đô nhờ tác động cải thiện vi khí hậu, bảo tồn và làm giàu tính đa dạng sinh học, giá trị cảnh quan, bảo vệ tài nguyên thiên nhiên …

– Nông nghiệp đô thị góp phần cung ứng nguồn lương thực, thực phẩm tươi sống tại chỗ cho các đô thị– Nông nghiệp đô thị tạo việc làm và thu nhập cho một bộ phận dân cư ở đô thị.– Nông nghiệp đô thị dễ tiếp cận các dịch vụ đô thị.– Nông nghiệp đô thị góp phần quản lý bền vững tài nguyên thiên nhiên, giảm ô nhiễm môi trường.– Nông nghiệp đô thị góp phần tạo cảnh quan đô thị và cải thiện sức khỏe cộng đồng.

2. Tổ chức không gian nông nghiệp đô thị trên thế giớiTrên thế giới tổ chức không gian nông nghiệp đô thị đã và đang được nhiều quốc gia, nhiều đô thị quan tâm. Nhiều mô hình không gian nông nghiệp và các chủ đề liên quan đến NNĐT ngày càng xuất hiện nhiều trong các nghiên cứu, bàn luận chuyên ngành như nông nghiệp công nghệ cao, thực phẩm sạch, đặc biệt trong lĩnh vực quy hoạch xây dựng đô thị đã và đang trở thành chương trình nghị sự chính thức trong các diễn đàn quốc tế, hướng dẫn chính sách và chương trình hành động cho các đô thị trên phạm vi toàn cầu. Chính vì vậy, NNĐT đã xuất hiện chính thức trong các tài liệu về quy hoạch như: quy hoạch cảnh quan sản xuất liên tục (CPULs), và quy hoạch hạ tầng xanh sản xuất với các dịch vụ sinh thái khác nhau.

Nhiều chương trình hành động và dự án NNĐT ở đô thị các nước phát triển như Chicago, New York (Hòa Kỳ), Toronto (Canada) hay Hà Lan, Nhật Bản đã thành công trong công việc tích hợp, lồng ghép hoạt động nông nghiệp vào từng không gian ô phố, không gian công trình hay không gian cộng đồng bằng các mô hình vườn NNĐT dạng thủy canh, hữu cơ và kết hợp truyền thống, dạng tòa nhà NNĐT, trang trại NNĐT, nông trại NNĐT, công viên NNĐT. Nhiều trường hợp nghiên cứu ứng dụng thành công đã thúc đẩy các nhà chuyên môn, các nhà quản lý đô thị tranh thủ sự đồng thuận của cộng đồng cư dân đô thị để luật hóa các hoạt động NNĐT trong những chính sách đô thị, luật quy hoạch, quy định của địa phương nhằm tạo điều kiện cho các hoạt động này được quy hoạch, phát triển và quản lý tốt hơn.

2.1. Mô hình tổ chức không gian nông nghiệp đô thị– Mô hình không gian NNĐT theo phương diện ngang trong đô thị– Mô hình không gian vườn cộng đồng: Khu vườn cộng đồng được tổ chức trên các khu đất thuộc khu phố, cụm dân cư hoặc những không gian trống trong đô thị và được quản lý và duy trì bởi một nhóm các cá nhân trồng các loại rau, trái cây, và hoa với cho mục đích sử dụng tại chỗ hoặc để tặng, để hỗ trợ cộng đồng, làm từ thiện.

– Mô hình không gian NN tại một số khu vực công cộng: Phát triển NN ở một số không gian công cộng có quy mô diện tích lơn như khu cây xanh cách li, vùng đệm, vành đai xanh và cảnh quan đường phố.

– Mô hình không gian trang trại, nông trại: Chính quyền thành phố và các cơ quan nhà nước thường là những chủ đất lơn nhất trong khu vực đô thị, đó là những không gian công cộng trong đô thị. Các thành phố ngày càng tìm cách thích nghi sử dụng đất ở khu vực công cộng để giải quyết nhu cầu về quy mô và mục tiêu đa dạng của NNĐT Trong đó, sự phát triển ở một số không gian công cộng có quy mô diện tích lớn như khu cây xanh cách li, vùng đệm, vành đai xanh và cảnh quan đường phố theo xu hướng NNĐT đang trở thành một công cụ của các nhà quy hoạch đô thị.

Trong khi tiếp cận cảnh quan sản xuất ở không gian công cộng có thể bổ sung ngân sách cho chi phí bảo trì cảnh quan công cộng, các thành phố ở các nước phát triển bắt đầu xem xét vấn đề giao khoán không gian công cộng trong đô thị cho hoạt động NNĐT như một hình thức để đảm bảo một nguồn cung cấp thực phẩm tại chỗ an toàn, phong phú và lành mạnh. Ở nhiều thành phố các nước phát triển như New York, London, hoạt động NNĐT được tổ chức ở dải phân cách giao thông, hoặc các khu vực vỉa hè công cộng, sân trường, ở những khu vực trồng cây cảnh quan của các công trình dân dụng và công cộng khác. Đặc biệt là không gian vành đai xanh đô thị rất thuận lợi cho mô hình NNĐT dạng trang trại ở quy mô lớn mang lại hiệu quả cao về kinh tế và dử dụng không gian trong đô thị.

Tuy nhiên, một thực tế là trong khi nhiều đô thị đã đạt được những lợi ích mô trường và thẩm mỹ đáng kể thông qua các chương trình trồng cây xanh tập trung theo mô hình NNĐT dạng trang trại thì vẫn còn nhiều thành phố nghiêm cấm việc trồng cây ăn quả và cây có hạt ở không gian công cộng, vì vấn đề bảo dưỡng, chăm sóc, thu hoạch các loại trái cây còn bất cập và gây ra ô nhiễm trong đô thị. Đến thời điểm hiện nay, những thập niên đầu của thế kỷ 21, hoạt động NNĐT dạng trang trại nói chung và bản đồ cây ăn trái đô thị nói riêng đang tìm đường vào không gian công cộng đô thị như động lực để tạo cảnh quan mới, đảm bảo an ninh lương thực, thực phẩm, xây dựng lại các hệ sinh thái, nuôi dưỡng và cải thiện khả năng phục hồi trước những rủi ro về môi trường cho đô thị.

Mô hình không gian NNĐT theo phương diện đứng trong đô thị– Mô hình không gian cao tầng chuyên canh: Mô hình không gian NNĐT cao tầng chuyên canh là những tòa nhà được tổ chức như một trang trại trong đô thị, dành riêng cho hoạt động NNĐT như sản xuất lương thực, trồng rau xanh và cây ăn trái, hoặc có thể kết hợp nuôi các loài động vật để lất thịt, chế biến các sản phẩm phụ và hoạt động thương mại buôn bán tại chỗ cũng như xuất khẩu. Cây trồng có thể được trồng trực tiếp trong đất, trong chậu, trong nhà kính hoặc nhà bạt, trong giá đỡ trong nhà theo chiều đứng, hoặc trên không gian khác của tòa nhà. Cách tiếp cận này có thể tổ chức không gian bên trong và cả bên ngoài tòa nhà phục vụ cho hoạt động canh tác, nhằm cung cấp nguồn thực phẩm địa phương cho các thành phố theo cách an toàn và bền vững, đồng thời giảm đáng kể tác động môi trường đô thị như hiệu ứng nhà kính, khí thải CO2 và khói bụi.

Mô hình canh tác theo chiều đứng còn có thể giúp “làm mới” thành phố thông qua việc phát triển các tòa nhà bỏ hoang trong các khu phố thành khu vực sản xuất nông nghiệp và phục vụ cho các hoạt động thương mại, trong lĩnh vực trao đổi sản phẩm nông nghiệp sạch. NNĐT thẳng đứng ngày càng trở nên khả thi trong không gian đô thị, do sử dụng công nghệ xây dựng hiện đại kết hợp công nghệ nông nghiệp tiên tiến. Không gian trang trại theo mô hình công trình cao tầng được tổ chức không gian sản xuất theo kiểu xếp lớp, chồng lên nhau, khai thác hiệu quả hệ số sử dụng đất. Đồng thời, sản phẩm nông nghiệp được bảo vệ tránh khỏi các điều kiện thời tiết bất lợi, được quản lý sâu bệnh và được bố trí ánh sáng nhân tạo thích hợp, kết hợp với các hệ thống nước tái chế nên trang trại thẳng đứng có thể trồng cây 24 giờ mỗi ngày, trong suốt cả năm. Vì vậy năng suất sản xuất của mô hình này thường cao hơn nhiều so với phương pháp canh tác nông nghiệp truyền thống. Đặc biệt hơn là mô hình cao tầng chuyên canh NNĐT tận dụng được tất cả các mặt của không gian trong tòa nhà phục vụ cho hoạt động NNĐT.

– Mô hình không gian cao tầng kết hợp hoạt động NNĐT với chức năng khác: Với ý tưởng trở về với thiên nhiên cùng với sự tiến bộ vượt bậc của công nghệ xây dựng mới, các loại công trình cao tầng trong đô thị đã thực hiện giải pháp cấu trúc đặc biệt kết hợp giữa không gian văn phòng, không gian ở … với không gian NNĐT ngày càng mang lại hiệu quả tích cực cho cả hai lĩnh vực. Đó là những cách thức sáng tạo để tái sử dụng những vật liệu rẻ tiền, có sẵn, như vỏ chai, thùng xốp để tạo ra các khu vườn trên ban công, trên tường, trên mái, góp phần đa dạng hóa không gian NNĐT.

Một báo cáo về sáng kiến loại hình này ở các nước đang phát triển cho thấy việc sử phương tiện trồng trọt có công nghệ thích hợp, chi phí thấp, chiếm ít không gian, có khả năng tận dụng không gian “chết”, ít sử dụng trong đô thị. Các thành phần khác của tòa nhà cao tầng như hệ thống nước thải và chất thải hữu cơ cũng có thể sử dụng cho mục đích NNĐT. Bằng cách này, hoạt động NNĐT có tác động trở lại đối với không gian khác, như xanh hóa không gian, linh hoạt không gian và gia tăng các giá trị kinh tế, xã hội, môi trường.

3. Tổ chức không gian nông nghiệp đô thị ở Việt Nam3.1. Các mô hình nông nghiệp chính quy– Mô hình nông nghiệp truyền thốngMô hình nông nghiệp truyền thống diễn ra chủ yếu ở 2 dạng hoạt động trong đô thị:– Hoạt động nông nghiệp phân tán: tại các không gian nông nghiệp vùng ngoại ô đô thị, do có quỹ đất và nhu cầu sinh kế các hộ gia đình tổ chức chăn nuôi và trồng trọt tại chỗ mang tính chất tự cung tự cấp kết hợp nhu cầu thương mại ở mức độ nhỏ lẻ. Phương thức hoạt động nông nghiệp truyền thống tại hộ gia đình tuy có giải quyết được một số yêu cầu cần thiết cho người dân đô thị nhưng cũng để lại hệ lụy lớn cho môi trường sống. Vấn đề ô nhiễm chất thải từ hoạt động nông nghiệp truyền thống ngày càng trầm trọng hơn.

– Không gian sản xuất nông nghiệp tập trung: quỹ đất nông nghiệp vùng ngoại ô, ngoại vi khá lớn trong cấu trúc không gian đô thị, được các tập thể cũng như các cá nhân tổ chức hoạt động nông nghiệp trồng trọt và chăn nuôi theo phương thức cũng tương tự như ở hộ gia đình nhưng ở quy mô lớn hơn. Do đó, các vùng sản xuất nông nghiệp trong đô thị hiện nay không đảm bảo vệ sinh môi trường và ngày càng gây ô nhiễm trên diện rộng, ảnh hưởng trực tiếp đến các không gian canh tác các không gian chức năng khác trong đô thị.

– Mô hình nông nghiệp chất lượng caoNhiều địa phương trong nước đang đẩy mạnh đã xây dựng nhiều chương trình, đề án phát triển sản xuất các loại cây trồng, vật nuôi dạng công nghệ cao để có giá trị kinh tế cao và từng bước hình thành và mở rộng các vùng chuyên môn hóa nông nghiệp trong không gian đô thị như: chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi ở khu vực đô thị, thị trấn, thị tứ; phát triển sản xuất hàng hóa chất lượng cao; phát triển sản xuất và tiêu thụ sản phẩm an toàn; phát triển cây ăn quả đặc sản ở các đô thị tỉnh lỵ; phát triển sản xuất hoa – cây cảnh có giá trị kinh tế cao; phát triển kinh tế trang trại ở các đô thị có vai trò trung tâm khu vực như Hà Nội, Đà Nẵng, thành phố Hồ Chí Minh, và Cần Thơ. Việc xây dựng nền nông nghiệp trong đô thị theo hướng ứng dụng công nghệ cao được xem là một định hướng phù hợp và tất yếu của nền nông nghiệp hiện đại. Bên cạnh nguồn lực hiện có của địa phương, thành phố nên xúc tiến đầu tư, kêu gọi đầu tư xây dựng mô hình NNCNC nhằm đưa sản xuất nông nghiệp của thành phố ngang tầm với tiềm năng và vị thế của nó.

Từ đầu những năm 2000 đến cuối năm 2015, cả nước có khoảng 34 khu NNCNC đã và đang được xây dựng tại 19 tỉnh thuộc 7 vùng kinh tế và ngày càng phát triển mạnh. Một số mô hình tiêu biểu như khu NNCNC 7,5 hecta ở Từ Liêm (Hà Nội), ở Đồ Sơn, (Hải Phòng), khu NNCNC diện tích 88 hecta ở Củ Chi (thành phố Hồ Chí Minh) và ở một số đô thị khác như An Thái (Bình Dương), Suối Dầu (Khánh Hòa) [55].

Mô hình nông nghiệp sinh thái hữu cơBên cạnh các mô hình nông nghiệp công nghệ cao ở một số đô thị Việt Nam còn hình thành mô hình nông nghiệp sinh thái hữu cơ, dạng trang trại, nông trường và làng nghề. Với bề dày của việc canh tác nông nghiệp truyền thống, các mô hình nông nghiệp sinh thái hữu cơ bước đầu gắn với môi trường đô thị khá thuận lợi. Có điều kiện về không gian đô thị mà chủ yếu là vùng ngoại thành, ngoại ô cộng với kinh nghiệm trong chăn nuôi trồng trọt của người dân do đó tổ chức sản xuất theo hướng sinh thái hữu cơ trong môi trường đô thị mang lại hiệu quả cho người dân và đô thị. Tuy nhiên mặt hạn chế của mô hình này khi mở rộng quy mô lại dẫn đến ô nhiễm môi trường vì không xử lý thỏa đáng về chất thải. Bên cạnh đó mô hình nông nghiệp sinh thái hữu cơ thường ở vị trí xa trung tâm cũng như hạ tầng kỹ thuật đô thị còn nhiều hạn chế… đây chính là những khó khăn chính của mô hình nông nghiệp sinh thái hữu cơ đối với các đô thị ở Việt Nam hiện nay.

3.2. Các mô hình nông nghiệp phi chính quy trong đô thị­ – Mô hình trồng cây tự phátTrong bối cảnh người dân ngày càng lo ngại tình trạng mất vệ sinh an toàn thực phẩm, trào lưu trồng rau sạch tại gia đang dần trở nên phổ biến ở các đô thị lớn, nhất là trong nội thành Hà Nội. Trong khi đó, việc để người dân trồng rau, giàn dây leo, cây cối trên tầng cao, nhà mặt phố. Không chỉ “làm nông nghiệp” trong gia đình, nhiều người dân còn tận dụng các khoảnh đất trống trong các khu đô thị, công viên, vườn hoa, bờ sông làm chỗ canh tác.

3.3. Tổ chức không gian nông nghiệp đô thị ở Thành phố Hà NộiMô hình tổ chức không gian nông nghiệp đô thị tại Thành phố Hà Nội cũng bao gồm các mô hình chính quy và phi chính quy. Tuy nhiên, với điều kiện quỹ đất hẹp, lao động dư thừa, nguồn lực tự nhiên phong phú, thì khâu đột phá quan trọng nhất để phát triển nông nghiệp đô thị bền vững chính là ứng dụng công nghệ cao trong sản xuất nông nghiệp để nâng cao năng suất, chất lượng, hạ giá thành sản phẩm và tận dụng quỹ đất hợp lý.

Ngàu 24/12/2015, UBND thành phố Hà Nội đã phê duyệt Chương trình “Phát triển nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao thành phố Hà Nội, giai đoạn 2016-2020” và Kế hoạch “Tái cơ cấu ngành nông nghiệp thành phố Hà Nội theo hướng nâng cao giá trị gia tăng và phát triển bền vững, giai đoạn 2016-2020”. Theo đó, định hướng, phát triển nông nghiệp Hà Nội theo hướng hiện đại và nông nghiệp đô thị sinh thái, góp phần tạo cảnh quan môi trường, thúc đẩy phát triển du lịch sinh thái, hài hòa và bền vững môi trường, từng bước thích nghi với biển đổi khí hậu; đồng thời, hình thành các vùng sản xuất hàng hóa tập trung chuyên canh, các vành đai xanh, các tuyến nông nghiệp sinh thái và khu nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao…

Kết luậnNông nghiệp đô thị không những đảm bảo yêu cầu về giải quyết lao động, thu nhập cho lực lượng lớn dân cư đô thị và ven đô để sản xuất nông sản đáp ứng cả về số lượng với chất lượng ngày nâng cao theo hướng an toàn vệ sinh thực phẩm, mà nó còn có vai trò quan trọng hơn đó là tạo lập cảnh quan, bảo vệ môi trường sinh thái. Phát triển nông nghiệp theo hướng nông nghiệp đô thị đã và đang là xu thế của nhiều thành phố trên thế giới cũng như trong khu vực trên cơ sở sử dụng hợp lý tài nguyên đất đai.

Thông qua bức tranh của NNĐT trên thế giới hiện nay cho thấy NNĐT ngày càng khẳng định vai trò vị trí của mình trong không gian đô thị. Không gian nông nghiệp đô thị có thể làm mới không gian đô thị đã chứng minh các xu hướng phát triển của NNĐT diễn ra tất yếu trong phạm vi toàn cầu, trong đó có các đô thị ở Việt Nam. Vấn đề tổ chức không gian đô thị ở các thành phố đỏi hỏi phải được nghiên cứu đi trước một bước, mang tính cấp thiết hiện nay. Hiện trạng về nông nghiệp đô thị ở các thành phố ở Việt Nam từ góc độ quy hoạch phát triển đô thị, cho thấy sự cần thiết phải tổ chức NNĐT để hướng đến quy hoạch phát triển đô thị xanh – thông minh và bền vững trong bối cảnh đô thị hóa và BĐKH hiện nay.

Vì vậy cần có những nghiên cứu từ quy hoạch tổng thể đến quy hoạch chi tiết các khu vực có hoạt động nông nghiệp đô thị theo hướng phát triển đô thị xanh – thông minh cùng với việc ban hành các cơ chế chính sách tạo điều kiện cho phát triển nông nghiệp đô thị trong thời gian tới.


Từ khóa: 

nông nghiệp

,

kinh doanh và khởi nghiệp

,

khởi nghiệp

,

kiến trúc

,

sinh vật cảnh