Việc phát hiện ra mtDNA là biparental inheritance có thể dẫn tới hệ quả gì trong những nghiên cứu liên quan đến mitochondrial medicine field không ạ?
Chào anh Hùng. có một người bạn của em đang học Biochemistry and Molecular Biology tại Gettysburg College muốn gửi câu hỏi này cho anh ạ.
Mong nhận được câu trả lời của anh, cảm ơn anh!
dna
,nhà khoa học về gen di truyền và sinh học phân tử
Chào em (và bạn em), cảm ơn em đã hỏi anh câu hỏi thú vị này. Cũng may là anh vừa đọc nghiên cứu này hôm trước, nên có thêm kiến thức để trả lời được. :)
Đầu tiên, qua chính bài nghiên cứu được đưa ra, thì không phải chắc chắn 100% là mitochondria họ xét đến đến từ người cha - cách họ kiểm tra dựa trên việc xét nghiệm gien, và phát hiện một số mitochondria có một điểm duy nhất giống cha, còn lại giống mẹ. Vấn đề là điểm này có thể do đột biến gien gây ra. Tuy theo nghiên cứu, thì họ khá chắc không phải do đột biến, vì nó quá hi hữu, hay gì đó như vậy.
Nhưng mà, cũng đã có nhiều nghiên cứu cho thấy có một số lượng tuy nhỏ, nhưng đủ mitochondria từ cha có thể 'sống sót' sau khi thụ tinh, tuy rằng có cơ chế để tiêu diệt chúng trong trứng. Dù theo hướng nào đi nữa, thì sự thật là với hiểu biết này, thì chưa gì có thể thay đổi nhiều. Đa số người vẫn có mitochondria từ mẹ là chính.
Với một số người ít mà có cả mitochondria từ cha lẫn mẹ (nếu thực sự là vậy), thì chúng ta có cơ hội tìm cách chữa được bệnh cho họ. Nếu mitochondria từ cha hay mẹ bị vấn đề, thì có thể tìm cách hủy diệt chúng (preferably lúc mới thụ tinh), để mitochondria từ người còn lại chở nên mitochondria chính. Tuy rằng... cái này cần những công nghệ như CRISPR, mà chắc em cũng biết là với vụ việc CRISPR gần đây, thế giới chưa sẵn sàng cho việc này.
Anh nghĩ sắp tới, nghiên cứu sẽ phải đi theo hướng trả lời những câu hỏi sau:
1.) Trong những tình huống nào, mitochondria của cha sống sót được với đủ số lượng để tiếp tục phát triển trong cơ thể.
2.) Biết trường hợp nào để mitochondria của cha sống được nhiều hơn, thì có cách nào để thúc đẩy điều này không? Theo một số nghiên cứu, thì có một số cách thụ tinh nhân tạo, do bơm vào nhiều mitochondria từ cha hơn, nên sẽ có ảnh hưởng lớn hơn.
Anh nghĩ đó là những ảnh hưởng chính của nghiên cứu này. Cho đến khi hiểu được rõ hơn về cơ chế của nó, thì khó có thể biết được là có thể đi được tới đâu.
Hung Viet Nguyen
Chào em (và bạn em), cảm ơn em đã hỏi anh câu hỏi thú vị này. Cũng may là anh vừa đọc nghiên cứu này hôm trước, nên có thêm kiến thức để trả lời được. :)
Đầu tiên, qua chính bài nghiên cứu được đưa ra, thì không phải chắc chắn 100% là mitochondria họ xét đến đến từ người cha - cách họ kiểm tra dựa trên việc xét nghiệm gien, và phát hiện một số mitochondria có một điểm duy nhất giống cha, còn lại giống mẹ. Vấn đề là điểm này có thể do đột biến gien gây ra. Tuy theo nghiên cứu, thì họ khá chắc không phải do đột biến, vì nó quá hi hữu, hay gì đó như vậy.
Nhưng mà, cũng đã có nhiều nghiên cứu cho thấy có một số lượng tuy nhỏ, nhưng đủ mitochondria từ cha có thể 'sống sót' sau khi thụ tinh, tuy rằng có cơ chế để tiêu diệt chúng trong trứng. Dù theo hướng nào đi nữa, thì sự thật là với hiểu biết này, thì chưa gì có thể thay đổi nhiều. Đa số người vẫn có mitochondria từ mẹ là chính.
Với một số người ít mà có cả mitochondria từ cha lẫn mẹ (nếu thực sự là vậy), thì chúng ta có cơ hội tìm cách chữa được bệnh cho họ. Nếu mitochondria từ cha hay mẹ bị vấn đề, thì có thể tìm cách hủy diệt chúng (preferably lúc mới thụ tinh), để mitochondria từ người còn lại chở nên mitochondria chính. Tuy rằng... cái này cần những công nghệ như CRISPR, mà chắc em cũng biết là với vụ việc CRISPR gần đây, thế giới chưa sẵn sàng cho việc này.
Anh nghĩ sắp tới, nghiên cứu sẽ phải đi theo hướng trả lời những câu hỏi sau:
1.) Trong những tình huống nào, mitochondria của cha sống sót được với đủ số lượng để tiếp tục phát triển trong cơ thể.
2.) Biết trường hợp nào để mitochondria của cha sống được nhiều hơn, thì có cách nào để thúc đẩy điều này không? Theo một số nghiên cứu, thì có một số cách thụ tinh nhân tạo, do bơm vào nhiều mitochondria từ cha hơn, nên sẽ có ảnh hưởng lớn hơn.
Anh nghĩ đó là những ảnh hưởng chính của nghiên cứu này. Cho đến khi hiểu được rõ hơn về cơ chế của nó, thì khó có thể biết được là có thể đi được tới đâu.