Làm sao để trồng lúa ngắn ngày

  1. Nông nghiệp

Từ khóa: 

nông nghiệp

Cần đảm bảo các bước sau để có thể trồng được lúa ngắn ngày

1. Chuẩn bị hạt giống: Hạt giống khô, chắc mầm, tỉ lệ hạt mầm cao 85% trở lên

2. Thực hiện các khâu ngâm ủ hạt có tỉ lệ nảy mầm cao

3. Các phương thức làm mạ:

Mạ dược

Mạ sân

Mạ đền

Mạ khô

Mạ nổi

4. Làm đất gieo mạ

5. Chăm sóc và quản lý ruộng mạ

6. Chuẩn bị làm đất cấy


Trả lời

Cần đảm bảo các bước sau để có thể trồng được lúa ngắn ngày

1. Chuẩn bị hạt giống: Hạt giống khô, chắc mầm, tỉ lệ hạt mầm cao 85% trở lên

2. Thực hiện các khâu ngâm ủ hạt có tỉ lệ nảy mầm cao

3. Các phương thức làm mạ:

Mạ dược

Mạ sân

Mạ đền

Mạ khô

Mạ nổi

4. Làm đất gieo mạ

5. Chăm sóc và quản lý ruộng mạ

6. Chuẩn bị làm đất cấy


Thời vụ:

-Vụ Đông Xuân là vụ chính, nắng tốt, ít mưa, cây quang hợp tốt, cho năng suất cao nếu đầu tư phân hợp lý.

-Vụ Hè Thu: mưa nhiều, dễ đỗ ngã, sâu bệnh nhiều, cần hạn chế phân đạm

-Vụ Thu Đông: Tùy đất, tùy giống, có thể bón phân như vụ Đông Xuân

Giống:

Giống ngắn ngày hiện nay đa số từ 85-105 ngày, do đó cách bón phân cho mỗi loại cũng khác nhau, đặc biệt là giai đoạn đón đòng (bón tống). Thông thường bón giai đoạn thúc 1 (giai đoạn mạ): 7-10 ngày, chủ yếu bón đạm. Giai đoạn đẻ nhánh (18-25 ngày): đạm và lân. Giai đoạn đòng trổ: đạm và kali. Nên quan sát tình trạng của cây để quyết định số lượng và ngày bón (không ngày, không số) và nên sử dụng bảng so màu lá lúa để quyết định lượng phân đạm. Tùy loại giống có đáp ứng nhiều hay ít phân mà quyết định số lượng.

Kỹ thuật canh tác:

Nên sạ thưa, sạ hàng hoặc cấy. Nên áp dụng nặng đầu nhẹ đuôi. Khi bón phân cần giữ mực nước 3-5cm trên ruộng để tránh mất phân. Kiểm tra bờ đê tránh rò rỉ nước. Cần tránh bón phân khi lúa đang nhiễm bệnh (đặc biệt là phân đạm), sau khi xử lý hết bệnh, vết bệnh khô mới bón phân.

Đất:

Tùy vùng đất là đất cồn ven sông, đất thịt, đất phèn nhẹ, phèn trung bình, phèn nặng để quyết định. Đất canh tác 2 vụ, đất 3 vụ lúa, đất 2 lúa 1 màu xử lý khác nhau. Trên cùng mảnh ruộng, có nơi gò nơi trũng dựa vào kinh nghiệm để bón. Môt số nông dân giỏi khi bón phân chừa lại một ít của mỗi lần bón, sau 2-3 ngày bón vá áo để đảm bảo cả quần thể ruộng nhận dinh dưỡng đồng đều như nhau.

Loại và lượng phân bón:

Số liệu sau đây chỉ mang tính chất tham khảo, bởi vì loại phân và lượng phân khi bón cho lúa tùy thuộc vào các điều kiện như: đất đai, giai đọan sinh trưởng, mùa vụ, giống, màu sắc cây, tình hình sâu bệnh, thời tiết ... mà quyết định.

Vụ Đông Xuân: Có thể áp dụng công thức: 90–100 N – 40-60 P2O5 – 30-40 K2O.

Vụ Hè Thu: Có thể áp dụng công thức: 80-90 N – 50-60 P2O5 – 30-40 K2O.

Vụ Thu Đông: Áp dụng công thức phân bón tương tự như vụ Đông Xuân.

Công thức trên để tính các nguyên tố đa lượng nguyên chất trên mỗi ha cần cung cấp.

Tùy loại phân mua trên thị trường để tính số lượng cụ thể. Thị trường hiện nay có phân đơn (1 nguyên tố dinh dưỡng), phân hỗn hợp (2 nguyên tố dinh dưỡng trở lên) và phân chuyên dùng (nhà sản xuất đã tính toán để người dân đến thời điểm bón theo số lượng đã định sẳn để bón cho từng loại cây trồng). Khi mua phân cần xem kỹ thành phần trên bao bì để biết số lượng dưỡng chất cần cung cấp.

Một số phân phổ biến trên thị trường hiện nay:

- Phân Urê: Thông thường 46%, tức 100kg phân (2 bao) chứa 46kg N nguyên chất.

- Phân Lân Văn Điển – Ninh Bình: 15-17%, tức 100kg phân chứa 15-17kg P2O5 (lân) nguyên chất.

- Phân Lân Super Phosphate Long Thành: Chứa 17-20kg P2O5 trong 100kg phân.

- Phân Clorur Kali: Thông thường chứa 60 K2O, cũng có loại 30 K2O (cần tính toán kỹ, đôi khi dễ nhầm lẫn vì hàm lượng chỉ 50% phân 60 K2O).

- Phân hỗn hợp:

DAP: 18-46-0 : Trong 100kg phân (2 bao) chứa 18kg N và 46kg P2O5

NPK: 16-16-8 : Trong 100kg phân chứa 16kg N, 16kg P2O5 và 8kg K2O.

NPK: 20-20-15 : Trong 100kg phân chứa 20kg N, 20kg P2O5 và 15kg K2O.

Theo quy ước ghi trên bao bì, số đầu tiên thường là N, kế đến là P và K. Ngoài ra sẽ có một số trung và vi lượng đi kèm theo.

Rất nhiều loại phân bón khác do nhiều hãng sản xuất cũng áp dụng như trên.

Để đáp ứng công thức phân 90–100 N – 40-60 P2O5 – 30-40 K2O, nếu sử dụng phân đơn ở vụ Đông Xuân:

* 90-100N, cần 200kg Urê chứa 92kg N, gia giảm theo tình trạng cây.

* 40-60 P2O5 3 loại phân trên. Nếu sử dụng Lân Văn Điển hoặc Ninh Bình nên bón lót (phân nung chảy - chậm tan), phân Supper có thể bón thúc lần một và tránh sử dụng ở đất phèn.

* 30-40 K2O cần 50-70kg KCl 60%.

Sử dụng phân hỗn hợp: Tính phân hỗn hợp trước và bổ sung phân đơn sau:

Ví dụ 1: Sử dụng DAP

100kg DAP (2 bao): Đã cung cấp đủ 46kg P2O5 theo yêu cầu, đạm cung cấp 18kg nguyên chất, theo công thức cần bón 90N-18N sẽ cần bổ sung 72N.

Trong 100kg Urê đã có 46kg N, vậy nếu cần 72kg N thì cần khoảng 150-160kg Urê và cần thêm 50-70kg Clorur Kali.

Ví dụ 2: Sử dụng NPK 20-20-15

100kg NPK đáp ứng 20P2O5 và 15K2O, cần 200kg NPK đáp ứng 40P2O5 , 30K2O và 40N đảm bảo gần đủ lân và kali, nhu cầu 90N, đã có 40N, phải bổ sung 90N-40N = 50N.

100kg Urê đã có 46N, cần 50N, tức cần khoảng 100-110kg Urê.

Các phân khác cũng tính tương tự như trên.

Đạm giúp cây tăng trưởng, đẻ nhánh, ra lá, tăng chiều cao ... nên cần suốt thời kỳ sinh trưởng. Lân giúp cây đẻ nhánh, ra rễ, thúc đẩy phân hóa đòng, nên cần nhiều ở giai đọan đầu. Kali giúp tăng khả năng chống chịu sâu bệnh, đổ ngã, thời tiết khắc nghiệt, tăng khả năng tích lũy chất khô gia tăng năng suất chất lượng lúa gạo.

Phân đạm có thể bón 3 đợt: 7-10 ngày sau sạ (giai đoạn mạ), 18-25 ngày sau sạ (giai đoạn đẻ nhánh) và đón đòng. Phân lân nên bón sớm, bón lót hoặc thúc 1. Phân kali không thể thiếu ở giai đọan đón đòng.

Ngoài các phân đa lượng đã nêu trên có thể sử dụng phân bón lá bổ sung hoặc bón nuôi hạt, nhưng cần thiết tính toán thêm về hiệu quả kinh tế.