So sánh Phật giáo ở Hàn Quốc và Việt Nam?

  1. Kiến thức chung

Từ khóa: 

kiến thức chung

I. KHÁI QUÁT CHUNG. Phật Giáo là một trong những tín ngưỡng tôn giáo lớn của Châu Á nói riêng và của cả thế giới nói chung. Tôn giáo này được khởi nguồn từ Ấn Độ với người sáng lập là Thái tử Tất Đạt Đa. Sau khi thấu triệt tất cả chân lí vũ trụ, đạt Đạo vô thượng, thành bậc Chính Đảng Chính Giác nên ông được gọi là bậc Toàn giác, hiệu là Phật Thích Ca Mâu Ni (Shakyamuni) vào thế kỉ thứ V, VI trước Công nguyên. Phật giáo được Thích Ca Mâu Ni truyền giảng ở khắp miền bắc Ấn Độ trong khoảng thời gian 49 năm. Khi Phật còn tại thế đã đến nhiều nơi, nhiều chủng tộc nên lịch sử phát triển của Phật giáo khá đa dạng về các bộ phái cũng như các nghi thức hay phương pháp tu học. Đến thế kỷ XIII sau Công nguyên, Phật giáo ở Ấn Độ về cơ bản đã tiêu vong, nhưng lại được phát triển ở nhiều nước khác trên thế giới trong đó có Việt Nam và Hàn Quốc. 1. Khái quát Phật giáo ở Hàn Quốc. Như hầu hết các nước phương Đông, khi Phật giáo chưa du nhập vào Hàn Quốc thì Nho giáo đã có mặt và bám rễ sâu trong đời sống văn hóa xã hội của đất nước này. Dù vậy thì Phật giáo cũng có mặt ởHàn Quốc tương đối sớm và có vai trò quan trọng trong đời sống xã hội người dân xứ Hàn. Các nhà học giả vẫn tranh luận về khả năng đạo Phật du nhập vào Hàn Quốc trực tiếp từ Ấn Độ, nhưng nhìn chung những cứ liệu lịch sử lại không ủng hộ ý kiến này. Phần lớn các ý kiến đều cho rằng đạo Phật được truyền từ Trung Quốc sang bán đảo Hàn Quốc và bị ảnh hưởng sâu sắc bởi đạo Phật theo hệ phái Đại thừa Trung Quốc. Cho tới nay, đạo Phật đã tồn tại ở Hàn Quốc khoảng 1600 năm), và trong suốt giai đoạn lịch sử đó đạo Phật đã hình thành truyền thống sâu sắc và một nên văn hóa đặc trưng cho đất nước này. Qua các thời kỳ: • Thời kỳ ba Vương quốc ( 57TCN-668CN).: năm 372, đạo Phật được truyền tới Vương triều Goguryeo ( 37TCN-668CN), sau đó là tới Vương triều Baekje( 18TCN-660CN) vào năm 384 và cuối cùng là đến vương triều Silla (57TCN-935CN) năm 527. Phật giáo hưng thịnh nhất thời Silla và Phật giáo Silla đại diện cho Phật giáo thời kỳ ba vương quốc. Phật giáo Silla cũng tượng trưng cho một giai đoạn mới trong sự truyền bá đạo Phật từ Ấn Độ đến các nước phương Đông. • Thời kì Goryeo (918-1392). • Thời kì Joseon (1392-1910): 500 năm triều đại Joseon là kỉ nguyên tối tăm đối với Phật giáo. • Thời kỳ cận đại. 2. Khái quát Phật giáo ở Việt Nam. Trước khi Phật giáo du nhập vào Việt Nam, tại đây đã có một nền văn hóa phong phú. Căn bản của nền văn hóa này xây dựng trên cơ sở của nền văn minh nông nghiệp với các thành tựu rực rỡ, mà cụ thể là ngoài những chứng tích của các nền văn minh còn lại, như vào thời Hai Bà Trưng, đã có bộ Việt luật, những dấu tích về ngôn ngữ Việt qua bài Việt ca còn sót lại trong thư tịch cổ Trung Quốc, có hệ thống lịch pháp riêng hoàn toàn khác với lịch pháp phương Bắc, những tín ngưỡng đặc thù cổ xưa còn lưu lại trong tín ngưỡng Phật điện đến tận ngày nay, và đặc biệt là nền văn hóa này có sức mạnh tiếp thu và đã chủ động bản địa hóa Phật giáo, một yếu tố văn hóa nước ngoài, để phù hợp với nó; và hơn thế nữa, biến nó trở thành một trong những vũ khí sắc bén và uy vũ đối kháng âm mưu đồng hóa và nô dịch về văn hóa của phương Bắc ngay từ những ngày đầu. Trong suốt 2000 năm truyền bá và thăng trầm của Phật giáo Việt Nam, có thể chia lịch sử Phật giáo Việt Nam thành các giai đoạn: • Giai đoạn 1: Phật Giáo Việt Nam từ thế kỷ thứ II đến hết thế kỷ thứ V: thời kỳ du nhập và hình thành Phật Giáo Việt Nam. • Giai đoạn 2: Phật giáo Việt Nam từ thế kỷ thứ VI đến hết thế kỷ thứ IX, thời kỳ phát triển: • Giai đoạn 3: Phật Giáo Việt Nam từ thế kỷ thứ X đến hết thế kỷ thứ XIII: thời kỳ cực thịnh. • Giai đoạn 4: Phật Giáo Việt Nam trong thế kỷ XX: thời kỳ phục hưng. II. SO SÁNH QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN CỦA PHẬT GIÁO HÀN QUỐC VÀ VIỆT NAM. 3. Hàn Quốc: • Thời kì ba Vương quốc (57 TCN – 668 CN): Thách thức đầu tiên khi Phật giáo mới du nhập vào Hàn Quốc là tín ngưỡng Tát-mãn giáo bản địa, tín ngưỡng này đã giúp hợp nhất những bộ lạc khác nhau thành những vương quốc thống nhất. Giúp Phật giáo thích ứng với tín ngưỡng bản địa bằng cách thiết lập Phật giáo Hộ quốc. • Thời kì Vương triều Silla hợp nhất (668-935): Vương triều Silla có sự am hiểu và tôn sùng Phật giáo nên quần chúng nhân dân sẵn sàng theo họ. Do đó, Phật giáo đã tăng cường tình đoàn kết trong xã hội Silla. Quan niệm duy tâm làm thỏa mãn sự khao khát chung về một vùng đất hạnh phúc, không có khổ đau và khuyến khích người dân đồng nhất quốc vương của họ hay những vị anh hùng dân tộc với vị thần Phật giáo. Với sự giúp đỡ của Phật giáo, Vương triều Silla đã thành công trong việc chuyển đổi từ chế độ thị tộc sang nhà nước quân chủ tập quyền với tính thống nhất quốc gia mạnh mẽ. Vương triều đặc biệt coi trọng và nghiên cứu sâu bộ kinh Phật Đại thừa: Kinh Hoa Nghiêm, Kinh Pháp. Phật học viện có ảnh hưởng nhất trong Phật giáo Hàn Quốc được ra đời với công lao của nhà tư tưởng Phật giáo bậc thầy Uisang. Cuối thời kì Silla hợp nhất, Phật giáo Seon (Thiền tông) được du nhập vào Hàn Quốc. • Thời kì Goryeo (918-1392): Phật giáo dưới triều đại Goryeo cũng giữ vai trò là nguồn cảm hứng chủ đạo cho sáng tác nghệ thuật và nghiên cứu chuyên môn học thuật sâu. Một trong những thành tựu to lớn nhất là nghệ thuật chạm khắc Tripitaka Koreana (Tam Tạng kinh Hàn bản). Đây là Bộ Kinh Phật được thực hiện vào đầu thế kỉ 13 trong suốt thời gian diễn ra chiến tranh với người Mông Cổ. Bộ Kinh này bao gồm hơn 80.000 mộc bản. Đây là một công trình quốc gia được tạo nên không chỉ bởi công sức của chính quyền mà còn toàn thể dân chúng, là sự kết tinh của một nền văn hóa dân tộc bắt nguồn từ đức tin Phật giáo. Tới cuối triều đại Goryeo Phật giáo đã phải chịu đựng những tổn thất nặng nề, do: sự chiếm hữu đất xây dựng chùa thờ Phật gia tăng hàng năm, việc miễn thuế và các nghi lễ quốc gia được tổ chức trên diện rộng đã trở thành gánh nặng lớn đối với ngân sách nhà nước. Hơn nữa, những vụ việc các nhà sư tham nhũng, cùng với sự dính líu của họ tới những cuộc tranh giành quyền lực chính trị, tiền tệ hay những vụ bê bối khác đã diễn ra thường xuyên và nghiêm trọng. • Thời kì Joseon (1392-1910): 500 năm triều đại Joseon là kỉ nguyên tối tăm đối với Phật giáo. Vì Tân Khổng giáo nổi bật lên như một thế lực mới, đàn áp Phật giáo một cách có hệ thống. Sự quản lí nhà nước đối với Phật giáo ngày càng trở nên căng thẳng hơn, và lên đến đỉnh điểm khi có lời tuyên bố rằng các nhà sư là thành phần bị xã hội ruồng bỏ nên không được phép bước vào khu vực thủ đô. Nhà nước đưa ra lệnh cấm xây dựng các đền thờ gần thị trấn và nhiều đền thờ đã bị phá hủy. Những tu viện đã tồn tại phải ẩn sâu trong núi. Do đó, Phật giáo đã mất đi địa vị của mình trong nền văn hóa xã hội Hàn Quốc. Giới Phật giáo gần như rất thất vọng và mang tư tưởng chủ bại. • Thời kỳ cận đại: Nhật Bản thôn tính Hàn Quốc vào năm 1910 và thực hiện có hệ thống chính sách Nhật hoá nền văn hoá Hàn Quốc. Các nhà sư Hàn Quốc được ủng hộ kết hôn, từ bỏ truyền thống sống độc thân, như các nhà sư Tân Tăng Nhật Bản đã và đang làm. Sau khi Hàn Quốc được giải phóng khỏi ách thống trị Nhật Bản năm 1945, những nhà tu hành còn độc thân của Hàn Quốc muốn xua đuổi những nhà sư đã kết hôn ra khỏi cộng đồng Phật giáo. Sau vài thập kỉ đấu tranh gay gắt, hai phe phái Jogye và Taego, tiêu biểu cho hai chủ trương nhà tu hành phải sống độc thân hay được kết hôn, thỏa thuận cùng chung sống như hai dòng Phật giáo lớn nhất ở Hàn Quốc. Phật giáo Hàn Quốc là hợp nhất các quan điểm khác nhau kết thành một hệ thống tư tưởng. 4. Việt Nam: • Phật Giáo Việt Nam từ thế kỷ thứ II đến hết thế kỷ thứ V: thời kỳ du nhập và hình thành Phật Giáo Việt Nam. Không bao lâu sau khi Phật Giáo được truyền vào Việt Nam, nhờ sự nổ lực hoạt động truyền giáo của các tăng sĩ Ấn Ðộ, tại Luy Lâu, thủ phủ của Giao Chỉ lúc bấy giờ đã trở thành một trung tâm Phật Giáo lớn nhất trong vùng. Một chứng liệu lịch sử quan trọng khẳng định Phật Giáo Việt Nam đã bắt rễ sớm ở Giao Châu là sự việc ngài Mâu Bác (sinh cuối thế kỷ thứ II) theo mẹ từ Trung Quốc sang Giao Châu khi ngài còn rất trẻ, rồi lớn lên, tại đây ngài đã viết bài "Lý hoặc Luận" và dịch một số kinh sách, chứng tỏ ngài đã học Phật giáo tại Giao Châu và như thế Phật Giáo Giao Châu đã phát triển khá mạnh, ít nhất là vào nữa đầu thế kỷ thứ III Tây Lịch. Sang thế kỷ thứ III, có ba nhà truyền giáo nước ngoài đến hoằng Pháp tại Giao Châu là các ngài Khương Tăng Hội (gốc người Sogdiane, Khương Cư); ngài Chi Cương Lương Tiếp (người xứ Nhục Chi) và ngài Ma Ha Kỳ Vực (người Ấn Ðộ). Ðến thế kỷ thứ V, có hai thiền sư xuất hiện, là Ðạt Ma Ðề Bà (Dharmadeva,) và Huệ Thắng (người Việt). Thiền sư Ðạt Ma Ðề Bà là người Ấn Ðộ đến Giao Châu vào giữa thế kỷ thứ V để giảng dạy về phương pháp thiền học. Thiền sư Huệ Thắng là người địa phương là một trong những học trò của ông. Cũng do được truyền bá trực tiếp từ Ấn Ðộ vào Việt Nam ngay từ đầu kỷ nguyên Tây lịch, nên danh xưng Buddha (Bậc Giác Ngộ) tiếng Phạn đã được phiên âm trực tiếp sang tiếng Việt là Bụt. Ðiều này trùng hợp với danh từ Bụt được xuất hiện trong nhiều truyện cổ tích Việt Nam. Trong con mắt của nền văn minh nông nghiệp, người Việt Nam hình dung Ðức Phật như là một vị thần toàn năng có mặt ở khắp nơi, sẵn sàng xuất hiện để cứu độ mọi người. • Phật giáo Việt Nam từ thế kỷ thứ VI đến hết thế kỷ thứ IX, thời kỳ phát triển: Bước sang thời kỳ này, Phật tử Việt Nam lại tiếp nhận thêm những đoàn truyền giáo của Trung Quốc. Không bao lâu sau đó, Phật Giáo phương Bắc đã chiếm ưu thế và đã thay đổi chổ đứng của Phật Giáo Nam Truyền vốn có từ trước. Từ Buddha được dịch thành chữ Phật, và từ đây Phật dần dần thay thế cho chữ Bụt và chữ Bụt chỉ còn giới hạn trong ca dao, tục ngữ, truyện cổ tích mà thôi. Trong thời gian này, từ Trung Hoa có ba tông phái được truyền vào Việt Nam, đó là Thiền Tông, Tịnh Ðộ Tông và Mật Tông. Thiền tông là một pháp môn tu tập có từ thời Ðức Phật Thích Ca tại Ấn Ðộ (trong hội Linh Sơn) rồi truyền xuống cho Tôn giả Ca Diếp, lần lượt cho đến Tổ thứ 28 Ấn Ðộ là Bồ Ðề Ðạt Ma (Bodhidharma). Ðến năm 520 Tổ Bồ Ðề Ðạt Ma, vốn là thái tử thứ ba của vua Kancipura, Nam Ấn, vâng theo lời thầy là Bát Nhã Ða La (Prajnatara), Bồ Ðề Ðạt Ma đến Trung Hoa để hoằng dương Phật pháp. Tại nơi ây, Thiền Tông đã được hình thành và nhanh chóng hưng thịnh. Tịnh Độ Tông là tông phái phổ biến khắp đất nước Việt Nam. Ðâu đâu ta cũng gặp người dân tụng Kinh A Di Ðà và niệm danh hiệu của Ðức Phật A Di Ðà. Tượng Phật A Di Ðà cũng thuộc loại tượng Phật lâu đời và phổ biến ở Việt Nam. Ðiển hình là pho tượng Phật A Di Ðà ở tỉnh Bắc Ninh, được tạo tác dưới triều Lý Thánh Tông năm 1057. Ðây là một bằng chứng đánh dấu sự ảnh hưởng Tịnh Ðộ Tông đầu tiên ở Việt Nam. Mật Tông là một tông phái chủ trương sử dụng hình ảnh cụ thể và những mật ngữ, mật chú để khai mở trí tuệ giác ngộ. Tương truyền Mật Tông do Phật Ðại Nhật chủ xướng và có hai bộ kinh chính là Kinh Ðại Nhật và Kinh Kim Cương. Mật tông truyền vào Việt Nam không còn độc lập như một tông phái riêng mà nhanh chóng hòa vào tín ngưỡng dân gian, pha trộn với các truyền thống như chẩn tế, cầu đồng, dùng pháp thuật, yếm bùa trị tà ma và trị bệnh. Mật tông không có dấu hiệu phát triển rõ ràng ở Việt Nam, chỉ tuỳ thuộc vào sự thọ trì của từng chùa và của mỗi cá nhân có cơ duyên đến với tông phái này. • Phật Giáo Việt Nam từ thế kỷ thứ X đến hết thế kỷ thứ XIII: thời kỳ cực thịnh. Phật Giáo Việt Nam trong thời kỳ này phát triển tới mức toàn vẹn và cực thịnh. Do ảnh hưởng tư tuởng của vua Trần Nhân Tông và Tuệ Trung Thượng Sĩ đầu thế kỷ thứ VIII, ba thiền phái Tỳ Ni Ða Lưu Chi, Vô Ngôn Thông và Thảo Ðường sát nhập tạo thành một và đưa tới sự phát triển của thiền phái Trúc Lâm là thiền phái duy nhất dưới đời Trần. Vì vậy đời Trần có thể gọi là thời đại thống nhất của Phật Giáo các hệ phái trước đó. Tăng sĩ đời Trần không trực tiếp đóng góp vào sự nghiệp chính trị như các thiền sư đời Lý, nhưng Phật Giáo là một yếu tố quan trọng để liên kết nhân tâm. Tinh thần Phật Giáo đã kiến cho các nhà chính trị đời Trần áp dụng những chính sách bình dân, thân dân và dân chủ. Phật Giáo trong đời Trần là quốc giáo, mọi người dân trong xã hội điều hướng về Phật Giáo. Thành tựu là An Nam Tứ Đại Khí: Tượng Phật Chùa Quỳnh Lâm: chùa Quỳnh Lâm ở Ðông Triều (Quảng Ninh) được xây dựng vào khoảng thế kỷ XI, có pho tượng Di Lặc bằng đồng mà theo văn bia mà nay vẫn còn giữ được trong chùa thì tượng cao 6 trượng (1 trượng bằng khoảng 4m) đặt trong một tòa Phật điện cao 7 trượng. Tháp Bảo Thiên: gồm 12 tầng, cao 20 trượng do vua Lý Thánh Tông cho xây dựng vào năm 1057 trên khuôn viên chùa Sùng Khánh ở phía Tây Hồ Lục Thủy (tức Hồ Gươm Hà Nội ngày nay) bằng đá và gạch, riêng tầng thứ 12 đúc bằng đồng. Ðây là đệ nhất danh thắng đế đô một thời. Ðến năm 1414 tháp bị quân Vương Thông tàn phá, nền tháp còn lại to như quả đồi, có thời dùng làm nơi họp chợ; đến năm 1791 dỡ ra lấy gạch xây thành còn thấy 4 pho tượng Kim Cương trấn giữ 4 cửa và nhiều tượng chim thú khác. Thời Pháp bị phá hủy hoàn toàn để xây dựng nhà thờ lớn trên mảnh đất ấy. Chuông Quy Ðiền: Năm 1101, vua Lý Nhân Tông cho xuất hàng vạn cân đồng để đúc quả chuông này và dự định treo nó tại khuôn viên chùa Diên Hựu trong lầu chuông bằng đá xanh cao 8 trượng. Nhưng chuông đúc xong to nặng quá không treo nổi lên đành để ở ngoài ruộng. Vạc Phổ Minh: đúc bằng đồng vào thời vua Trần Nhân Tông (1279-1293) đặt tại chùa Phổ Minh (làng Tức Mặc, Nam Hà). Vạc sâu 6 thước, rộng 10 thước nặng trên 7 tấn (11). Vạc to tới mức có thể nấu được cả một con bò mộng, trẻ con có thể chạy nô đùa trên thành miệng vạc. Ðến nay vẫn còn 3 trụ đá kê chân vạc trước sân chùa Phổ Minh. • Phật Giáo Việt Nam trong thế kỷ XX: thời kỳ phục hung: Phật Giáo Việt Nam đã trải qua thời cực thịnh nhất dưới hai triều đại Lý Trần, sang đến đời Hậu Lê rồi Nguyễn Triều thì Phật Giáo phải nhường bước cho Nho giáo, lúc ấy đang chiếm vai trò độc tôn. Triều đại nhà Nguyễn truyền đến đời vua Tự Ðức thì mất chủ quyền, nước ta rơi vào vòng đô hộ của Pháp. Phật Giáo Việt Nam vốn đã suy vi nay lại điêu tàn hơn. Trong bối cảnh đó, KiTô giáo đã du nhập vào Việt Nam và dân tộc Việt Nam lại tiếp nhận thêm một tôn giáo mới. Tuy tinh thần khai phóng dung hợp của Phật Giáo suốt mấy thế kỷ qua không còn được thể hiện trong chính sách quốc gia, văn hóa và xã hội vào thế kỷ XX nhưng Phật Giáo vẫn là tôn giáo chính của dân tộc, đóng vai trò hòa giải giữa các thế lực tranh chấp, góp phần xây dựng tinh thần dân tộc, bảo vệ nền độc lập của quốc gia. Vào khoảng những năm 1920-1930, trong không khí tưng bừng của phong trào chấn hưng Phật Giáo trên thế giới, đặt biệt ở Nhật Bản, Trung Hoa, Ấn Ðộ và Miến Ðiện, một số tăng sĩ và cư sĩ đã phát động phong trào chấn hưng Phật Giáo tại Việt Nam, từ đó đưa đến sự thành lập Tổng Hội Phật Giáo Việt Nam tại miền Bắc vào năm 1934 đặt trụ sở tại chùa Quán Sứ, và xuất bản tạp chí Ðuốc Tuệ. Ở miền Trung, Hội An Nam Phật Học cũng ra mắt tại chùa Từ Ðàm và cho xuất bản tạp chí Viên Âm vào 1934, mở các Phật Học Viện cho tăng chúng tu học như phật học đường Báo Quốc và Kim Sơn, Trúc Lâm và Tây Thiên. Ở Bình Ðịnh có hội Phật Học Bình Ðịnh, ở Ðà Nẵng có hội Phật Học Ðà Thanh, ra tạp chí Tam Bảo. Tại miền Nam, năm 1920, Hội Lục Hòa được thành lập để đoàn kết và vận động phong trào chấn hưng Phật Giáo. Hội nghiên cứu Phật Học Nam Kỳ ra đời, đặt trụ sở tại chùa Linh Sơn; xuất bản tạp chí Từ Bi Âm (1932). Nhờ phong trào chấn hưng Phật Giáo này mà đội ngũ tăng ni được đào tạo qua nhiều trường lớp và phát triển nhiều ở các tỉnh. Chùa chiền được xây dựng khắp nơi, nhất là hệ thống chùa phật học ở các thành thị. Nhiều ngôi chùa ở làng xã được trùng tu và có chư tăng ni trụ trì. Bên cạnh đó, trong thời kỳ này, có nhiều hệ phái, tôn phái phật giáo ra đời, như giáo phái Tăng Già Nguyên Thủy (Theravada, Nam Tông), Khất Sĩ Việt Nam, Thiên Thai Giáo Quán Tông, Phật Giáo Hoa Tông ... Một yêu cầu thống nhất Phật Giáo được đặt ra tại Huế, đưa đến việc thành lập Tổng Hội Phật Giáo Việt Nam đặt trụ sở tại chùa Từ Ðàm Huế, Hội Chủ là Hòa thượng Thích Tịnh Khiết, đây là một tổ chức thống nhất Phật Giáo ba miền Nam, Trung, Bắc, đồng thời vạch ra một con đường dân tộc nhân bản, hướng dẫn bước đi Phật Giáo vào môi trường tư tưởng và văn hóa, tiếp tục xây dựng con người và xã hội Việt Nam. Ðiểm đặc sắc của Phật Giáo Việt Nam trong thế kỷ XX là sự kết hợp của hai giáo phái Nam Tông và Bắc Tông vào năm 1964 để thành lập Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất. Ðến tháng mười một năm 1981, sau sáu năm đất nước thay đổi thể chế, một hội nghị với 165 đại biểu của chín tổ chức giáo hội hệ phái cả nước đã họp tại chùa Quán Sứ Hà Nội đưa đến việc thành lập Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam. Hòa thượng Thích Ðức Nhuận làm Pháp Chủ Hội Ðồng Chứng Minh Trung Ương, Hòa Thượng Thích Trí Thủ làm chủ tịch Hội Ðồng Trị Sự Trung Ương. Giáo hội đặt văn phòng I tại chùa Quán Sứ Hà Nội, văn phòng II tại chùa Xá Lợi (12) thành phố Hồ Chí Minh. III. KẾT LUẬN. Việt Nam và Hàn Quốc có nhiều điểm tương đồng về cơ sở kinh tế xã hội truyền thống với tư cách là nền tảng văn hóa nói chung và đời sống tín ngưỡng nói riêng. Tuy không gần kề về địa lý, nhưng các giá trị văn hóa truyền thống của hai nước, trong đó có văn hóa tín ngưỡng, đều có quá trình hình thành lâu dài trong trong những điều kiện kinh tế, xã hội có nhiều đặc điểm tương đối giống nhau. Vì thế mà ở cả Hàn Quốc và Việt Nam, Phật giáo đã được truyền bá, tồn tại và phát triển trong một khoảng thời gian dài cho tới tận ngày nay. Mỗi quốc gia thì lại mang trên mình những đặc điểm của văn hóa bản địa tiêu biểu và đặc trưng, vì thế mà Phật giáo từ khi được truyền bá vào Hàn Quốc và Việt Nam cho đến nay tồn tại và phát triển được chính là đã có những sự thay đổi cần thiết để hòa nhập và phù hợp với vùng văn hóa bản địa. Tuy Phật giáo du nhập vào Việt Nam và Hàn Quốc phải thay đổi ít nhiều để thích nghi với những đặc trưng văn hóa của quốc gia bản địa. Nhưng bản chất vốn có của học thuyết triết học - tôn giáo vốn có của Phật giáo vẫn còn giữ nguyên và không bị biến đổi. Những sự thay đổi đó chỉ với một mục đích là để nhân dân dễ dàng tiếp nhận Phật giáo và duy trì sự tồn tại của Phật giáo trong đời sống xã hội ở hai quốc gia này.
Trả lời
I. KHÁI QUÁT CHUNG. Phật Giáo là một trong những tín ngưỡng tôn giáo lớn của Châu Á nói riêng và của cả thế giới nói chung. Tôn giáo này được khởi nguồn từ Ấn Độ với người sáng lập là Thái tử Tất Đạt Đa. Sau khi thấu triệt tất cả chân lí vũ trụ, đạt Đạo vô thượng, thành bậc Chính Đảng Chính Giác nên ông được gọi là bậc Toàn giác, hiệu là Phật Thích Ca Mâu Ni (Shakyamuni) vào thế kỉ thứ V, VI trước Công nguyên. Phật giáo được Thích Ca Mâu Ni truyền giảng ở khắp miền bắc Ấn Độ trong khoảng thời gian 49 năm. Khi Phật còn tại thế đã đến nhiều nơi, nhiều chủng tộc nên lịch sử phát triển của Phật giáo khá đa dạng về các bộ phái cũng như các nghi thức hay phương pháp tu học. Đến thế kỷ XIII sau Công nguyên, Phật giáo ở Ấn Độ về cơ bản đã tiêu vong, nhưng lại được phát triển ở nhiều nước khác trên thế giới trong đó có Việt Nam và Hàn Quốc. 1. Khái quát Phật giáo ở Hàn Quốc. Như hầu hết các nước phương Đông, khi Phật giáo chưa du nhập vào Hàn Quốc thì Nho giáo đã có mặt và bám rễ sâu trong đời sống văn hóa xã hội của đất nước này. Dù vậy thì Phật giáo cũng có mặt ởHàn Quốc tương đối sớm và có vai trò quan trọng trong đời sống xã hội người dân xứ Hàn. Các nhà học giả vẫn tranh luận về khả năng đạo Phật du nhập vào Hàn Quốc trực tiếp từ Ấn Độ, nhưng nhìn chung những cứ liệu lịch sử lại không ủng hộ ý kiến này. Phần lớn các ý kiến đều cho rằng đạo Phật được truyền từ Trung Quốc sang bán đảo Hàn Quốc và bị ảnh hưởng sâu sắc bởi đạo Phật theo hệ phái Đại thừa Trung Quốc. Cho tới nay, đạo Phật đã tồn tại ở Hàn Quốc khoảng 1600 năm), và trong suốt giai đoạn lịch sử đó đạo Phật đã hình thành truyền thống sâu sắc và một nên văn hóa đặc trưng cho đất nước này. Qua các thời kỳ: • Thời kỳ ba Vương quốc ( 57TCN-668CN).: năm 372, đạo Phật được truyền tới Vương triều Goguryeo ( 37TCN-668CN), sau đó là tới Vương triều Baekje( 18TCN-660CN) vào năm 384 và cuối cùng là đến vương triều Silla (57TCN-935CN) năm 527. Phật giáo hưng thịnh nhất thời Silla và Phật giáo Silla đại diện cho Phật giáo thời kỳ ba vương quốc. Phật giáo Silla cũng tượng trưng cho một giai đoạn mới trong sự truyền bá đạo Phật từ Ấn Độ đến các nước phương Đông. • Thời kì Goryeo (918-1392). • Thời kì Joseon (1392-1910): 500 năm triều đại Joseon là kỉ nguyên tối tăm đối với Phật giáo. • Thời kỳ cận đại. 2. Khái quát Phật giáo ở Việt Nam. Trước khi Phật giáo du nhập vào Việt Nam, tại đây đã có một nền văn hóa phong phú. Căn bản của nền văn hóa này xây dựng trên cơ sở của nền văn minh nông nghiệp với các thành tựu rực rỡ, mà cụ thể là ngoài những chứng tích của các nền văn minh còn lại, như vào thời Hai Bà Trưng, đã có bộ Việt luật, những dấu tích về ngôn ngữ Việt qua bài Việt ca còn sót lại trong thư tịch cổ Trung Quốc, có hệ thống lịch pháp riêng hoàn toàn khác với lịch pháp phương Bắc, những tín ngưỡng đặc thù cổ xưa còn lưu lại trong tín ngưỡng Phật điện đến tận ngày nay, và đặc biệt là nền văn hóa này có sức mạnh tiếp thu và đã chủ động bản địa hóa Phật giáo, một yếu tố văn hóa nước ngoài, để phù hợp với nó; và hơn thế nữa, biến nó trở thành một trong những vũ khí sắc bén và uy vũ đối kháng âm mưu đồng hóa và nô dịch về văn hóa của phương Bắc ngay từ những ngày đầu. Trong suốt 2000 năm truyền bá và thăng trầm của Phật giáo Việt Nam, có thể chia lịch sử Phật giáo Việt Nam thành các giai đoạn: • Giai đoạn 1: Phật Giáo Việt Nam từ thế kỷ thứ II đến hết thế kỷ thứ V: thời kỳ du nhập và hình thành Phật Giáo Việt Nam. • Giai đoạn 2: Phật giáo Việt Nam từ thế kỷ thứ VI đến hết thế kỷ thứ IX, thời kỳ phát triển: • Giai đoạn 3: Phật Giáo Việt Nam từ thế kỷ thứ X đến hết thế kỷ thứ XIII: thời kỳ cực thịnh. • Giai đoạn 4: Phật Giáo Việt Nam trong thế kỷ XX: thời kỳ phục hưng. II. SO SÁNH QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN CỦA PHẬT GIÁO HÀN QUỐC VÀ VIỆT NAM. 3. Hàn Quốc: • Thời kì ba Vương quốc (57 TCN – 668 CN): Thách thức đầu tiên khi Phật giáo mới du nhập vào Hàn Quốc là tín ngưỡng Tát-mãn giáo bản địa, tín ngưỡng này đã giúp hợp nhất những bộ lạc khác nhau thành những vương quốc thống nhất. Giúp Phật giáo thích ứng với tín ngưỡng bản địa bằng cách thiết lập Phật giáo Hộ quốc. • Thời kì Vương triều Silla hợp nhất (668-935): Vương triều Silla có sự am hiểu và tôn sùng Phật giáo nên quần chúng nhân dân sẵn sàng theo họ. Do đó, Phật giáo đã tăng cường tình đoàn kết trong xã hội Silla. Quan niệm duy tâm làm thỏa mãn sự khao khát chung về một vùng đất hạnh phúc, không có khổ đau và khuyến khích người dân đồng nhất quốc vương của họ hay những vị anh hùng dân tộc với vị thần Phật giáo. Với sự giúp đỡ của Phật giáo, Vương triều Silla đã thành công trong việc chuyển đổi từ chế độ thị tộc sang nhà nước quân chủ tập quyền với tính thống nhất quốc gia mạnh mẽ. Vương triều đặc biệt coi trọng và nghiên cứu sâu bộ kinh Phật Đại thừa: Kinh Hoa Nghiêm, Kinh Pháp. Phật học viện có ảnh hưởng nhất trong Phật giáo Hàn Quốc được ra đời với công lao của nhà tư tưởng Phật giáo bậc thầy Uisang. Cuối thời kì Silla hợp nhất, Phật giáo Seon (Thiền tông) được du nhập vào Hàn Quốc. • Thời kì Goryeo (918-1392): Phật giáo dưới triều đại Goryeo cũng giữ vai trò là nguồn cảm hứng chủ đạo cho sáng tác nghệ thuật và nghiên cứu chuyên môn học thuật sâu. Một trong những thành tựu to lớn nhất là nghệ thuật chạm khắc Tripitaka Koreana (Tam Tạng kinh Hàn bản). Đây là Bộ Kinh Phật được thực hiện vào đầu thế kỉ 13 trong suốt thời gian diễn ra chiến tranh với người Mông Cổ. Bộ Kinh này bao gồm hơn 80.000 mộc bản. Đây là một công trình quốc gia được tạo nên không chỉ bởi công sức của chính quyền mà còn toàn thể dân chúng, là sự kết tinh của một nền văn hóa dân tộc bắt nguồn từ đức tin Phật giáo. Tới cuối triều đại Goryeo Phật giáo đã phải chịu đựng những tổn thất nặng nề, do: sự chiếm hữu đất xây dựng chùa thờ Phật gia tăng hàng năm, việc miễn thuế và các nghi lễ quốc gia được tổ chức trên diện rộng đã trở thành gánh nặng lớn đối với ngân sách nhà nước. Hơn nữa, những vụ việc các nhà sư tham nhũng, cùng với sự dính líu của họ tới những cuộc tranh giành quyền lực chính trị, tiền tệ hay những vụ bê bối khác đã diễn ra thường xuyên và nghiêm trọng. • Thời kì Joseon (1392-1910): 500 năm triều đại Joseon là kỉ nguyên tối tăm đối với Phật giáo. Vì Tân Khổng giáo nổi bật lên như một thế lực mới, đàn áp Phật giáo một cách có hệ thống. Sự quản lí nhà nước đối với Phật giáo ngày càng trở nên căng thẳng hơn, và lên đến đỉnh điểm khi có lời tuyên bố rằng các nhà sư là thành phần bị xã hội ruồng bỏ nên không được phép bước vào khu vực thủ đô. Nhà nước đưa ra lệnh cấm xây dựng các đền thờ gần thị trấn và nhiều đền thờ đã bị phá hủy. Những tu viện đã tồn tại phải ẩn sâu trong núi. Do đó, Phật giáo đã mất đi địa vị của mình trong nền văn hóa xã hội Hàn Quốc. Giới Phật giáo gần như rất thất vọng và mang tư tưởng chủ bại. • Thời kỳ cận đại: Nhật Bản thôn tính Hàn Quốc vào năm 1910 và thực hiện có hệ thống chính sách Nhật hoá nền văn hoá Hàn Quốc. Các nhà sư Hàn Quốc được ủng hộ kết hôn, từ bỏ truyền thống sống độc thân, như các nhà sư Tân Tăng Nhật Bản đã và đang làm. Sau khi Hàn Quốc được giải phóng khỏi ách thống trị Nhật Bản năm 1945, những nhà tu hành còn độc thân của Hàn Quốc muốn xua đuổi những nhà sư đã kết hôn ra khỏi cộng đồng Phật giáo. Sau vài thập kỉ đấu tranh gay gắt, hai phe phái Jogye và Taego, tiêu biểu cho hai chủ trương nhà tu hành phải sống độc thân hay được kết hôn, thỏa thuận cùng chung sống như hai dòng Phật giáo lớn nhất ở Hàn Quốc. Phật giáo Hàn Quốc là hợp nhất các quan điểm khác nhau kết thành một hệ thống tư tưởng. 4. Việt Nam: • Phật Giáo Việt Nam từ thế kỷ thứ II đến hết thế kỷ thứ V: thời kỳ du nhập và hình thành Phật Giáo Việt Nam. Không bao lâu sau khi Phật Giáo được truyền vào Việt Nam, nhờ sự nổ lực hoạt động truyền giáo của các tăng sĩ Ấn Ðộ, tại Luy Lâu, thủ phủ của Giao Chỉ lúc bấy giờ đã trở thành một trung tâm Phật Giáo lớn nhất trong vùng. Một chứng liệu lịch sử quan trọng khẳng định Phật Giáo Việt Nam đã bắt rễ sớm ở Giao Châu là sự việc ngài Mâu Bác (sinh cuối thế kỷ thứ II) theo mẹ từ Trung Quốc sang Giao Châu khi ngài còn rất trẻ, rồi lớn lên, tại đây ngài đã viết bài "Lý hoặc Luận" và dịch một số kinh sách, chứng tỏ ngài đã học Phật giáo tại Giao Châu và như thế Phật Giáo Giao Châu đã phát triển khá mạnh, ít nhất là vào nữa đầu thế kỷ thứ III Tây Lịch. Sang thế kỷ thứ III, có ba nhà truyền giáo nước ngoài đến hoằng Pháp tại Giao Châu là các ngài Khương Tăng Hội (gốc người Sogdiane, Khương Cư); ngài Chi Cương Lương Tiếp (người xứ Nhục Chi) và ngài Ma Ha Kỳ Vực (người Ấn Ðộ). Ðến thế kỷ thứ V, có hai thiền sư xuất hiện, là Ðạt Ma Ðề Bà (Dharmadeva,) và Huệ Thắng (người Việt). Thiền sư Ðạt Ma Ðề Bà là người Ấn Ðộ đến Giao Châu vào giữa thế kỷ thứ V để giảng dạy về phương pháp thiền học. Thiền sư Huệ Thắng là người địa phương là một trong những học trò của ông. Cũng do được truyền bá trực tiếp từ Ấn Ðộ vào Việt Nam ngay từ đầu kỷ nguyên Tây lịch, nên danh xưng Buddha (Bậc Giác Ngộ) tiếng Phạn đã được phiên âm trực tiếp sang tiếng Việt là Bụt. Ðiều này trùng hợp với danh từ Bụt được xuất hiện trong nhiều truyện cổ tích Việt Nam. Trong con mắt của nền văn minh nông nghiệp, người Việt Nam hình dung Ðức Phật như là một vị thần toàn năng có mặt ở khắp nơi, sẵn sàng xuất hiện để cứu độ mọi người. • Phật giáo Việt Nam từ thế kỷ thứ VI đến hết thế kỷ thứ IX, thời kỳ phát triển: Bước sang thời kỳ này, Phật tử Việt Nam lại tiếp nhận thêm những đoàn truyền giáo của Trung Quốc. Không bao lâu sau đó, Phật Giáo phương Bắc đã chiếm ưu thế và đã thay đổi chổ đứng của Phật Giáo Nam Truyền vốn có từ trước. Từ Buddha được dịch thành chữ Phật, và từ đây Phật dần dần thay thế cho chữ Bụt và chữ Bụt chỉ còn giới hạn trong ca dao, tục ngữ, truyện cổ tích mà thôi. Trong thời gian này, từ Trung Hoa có ba tông phái được truyền vào Việt Nam, đó là Thiền Tông, Tịnh Ðộ Tông và Mật Tông. Thiền tông là một pháp môn tu tập có từ thời Ðức Phật Thích Ca tại Ấn Ðộ (trong hội Linh Sơn) rồi truyền xuống cho Tôn giả Ca Diếp, lần lượt cho đến Tổ thứ 28 Ấn Ðộ là Bồ Ðề Ðạt Ma (Bodhidharma). Ðến năm 520 Tổ Bồ Ðề Ðạt Ma, vốn là thái tử thứ ba của vua Kancipura, Nam Ấn, vâng theo lời thầy là Bát Nhã Ða La (Prajnatara), Bồ Ðề Ðạt Ma đến Trung Hoa để hoằng dương Phật pháp. Tại nơi ây, Thiền Tông đã được hình thành và nhanh chóng hưng thịnh. Tịnh Độ Tông là tông phái phổ biến khắp đất nước Việt Nam. Ðâu đâu ta cũng gặp người dân tụng Kinh A Di Ðà và niệm danh hiệu của Ðức Phật A Di Ðà. Tượng Phật A Di Ðà cũng thuộc loại tượng Phật lâu đời và phổ biến ở Việt Nam. Ðiển hình là pho tượng Phật A Di Ðà ở tỉnh Bắc Ninh, được tạo tác dưới triều Lý Thánh Tông năm 1057. Ðây là một bằng chứng đánh dấu sự ảnh hưởng Tịnh Ðộ Tông đầu tiên ở Việt Nam. Mật Tông là một tông phái chủ trương sử dụng hình ảnh cụ thể và những mật ngữ, mật chú để khai mở trí tuệ giác ngộ. Tương truyền Mật Tông do Phật Ðại Nhật chủ xướng và có hai bộ kinh chính là Kinh Ðại Nhật và Kinh Kim Cương. Mật tông truyền vào Việt Nam không còn độc lập như một tông phái riêng mà nhanh chóng hòa vào tín ngưỡng dân gian, pha trộn với các truyền thống như chẩn tế, cầu đồng, dùng pháp thuật, yếm bùa trị tà ma và trị bệnh. Mật tông không có dấu hiệu phát triển rõ ràng ở Việt Nam, chỉ tuỳ thuộc vào sự thọ trì của từng chùa và của mỗi cá nhân có cơ duyên đến với tông phái này. • Phật Giáo Việt Nam từ thế kỷ thứ X đến hết thế kỷ thứ XIII: thời kỳ cực thịnh. Phật Giáo Việt Nam trong thời kỳ này phát triển tới mức toàn vẹn và cực thịnh. Do ảnh hưởng tư tuởng của vua Trần Nhân Tông và Tuệ Trung Thượng Sĩ đầu thế kỷ thứ VIII, ba thiền phái Tỳ Ni Ða Lưu Chi, Vô Ngôn Thông và Thảo Ðường sát nhập tạo thành một và đưa tới sự phát triển của thiền phái Trúc Lâm là thiền phái duy nhất dưới đời Trần. Vì vậy đời Trần có thể gọi là thời đại thống nhất của Phật Giáo các hệ phái trước đó. Tăng sĩ đời Trần không trực tiếp đóng góp vào sự nghiệp chính trị như các thiền sư đời Lý, nhưng Phật Giáo là một yếu tố quan trọng để liên kết nhân tâm. Tinh thần Phật Giáo đã kiến cho các nhà chính trị đời Trần áp dụng những chính sách bình dân, thân dân và dân chủ. Phật Giáo trong đời Trần là quốc giáo, mọi người dân trong xã hội điều hướng về Phật Giáo. Thành tựu là An Nam Tứ Đại Khí: Tượng Phật Chùa Quỳnh Lâm: chùa Quỳnh Lâm ở Ðông Triều (Quảng Ninh) được xây dựng vào khoảng thế kỷ XI, có pho tượng Di Lặc bằng đồng mà theo văn bia mà nay vẫn còn giữ được trong chùa thì tượng cao 6 trượng (1 trượng bằng khoảng 4m) đặt trong một tòa Phật điện cao 7 trượng. Tháp Bảo Thiên: gồm 12 tầng, cao 20 trượng do vua Lý Thánh Tông cho xây dựng vào năm 1057 trên khuôn viên chùa Sùng Khánh ở phía Tây Hồ Lục Thủy (tức Hồ Gươm Hà Nội ngày nay) bằng đá và gạch, riêng tầng thứ 12 đúc bằng đồng. Ðây là đệ nhất danh thắng đế đô một thời. Ðến năm 1414 tháp bị quân Vương Thông tàn phá, nền tháp còn lại to như quả đồi, có thời dùng làm nơi họp chợ; đến năm 1791 dỡ ra lấy gạch xây thành còn thấy 4 pho tượng Kim Cương trấn giữ 4 cửa và nhiều tượng chim thú khác. Thời Pháp bị phá hủy hoàn toàn để xây dựng nhà thờ lớn trên mảnh đất ấy. Chuông Quy Ðiền: Năm 1101, vua Lý Nhân Tông cho xuất hàng vạn cân đồng để đúc quả chuông này và dự định treo nó tại khuôn viên chùa Diên Hựu trong lầu chuông bằng đá xanh cao 8 trượng. Nhưng chuông đúc xong to nặng quá không treo nổi lên đành để ở ngoài ruộng. Vạc Phổ Minh: đúc bằng đồng vào thời vua Trần Nhân Tông (1279-1293) đặt tại chùa Phổ Minh (làng Tức Mặc, Nam Hà). Vạc sâu 6 thước, rộng 10 thước nặng trên 7 tấn (11). Vạc to tới mức có thể nấu được cả một con bò mộng, trẻ con có thể chạy nô đùa trên thành miệng vạc. Ðến nay vẫn còn 3 trụ đá kê chân vạc trước sân chùa Phổ Minh. • Phật Giáo Việt Nam trong thế kỷ XX: thời kỳ phục hung: Phật Giáo Việt Nam đã trải qua thời cực thịnh nhất dưới hai triều đại Lý Trần, sang đến đời Hậu Lê rồi Nguyễn Triều thì Phật Giáo phải nhường bước cho Nho giáo, lúc ấy đang chiếm vai trò độc tôn. Triều đại nhà Nguyễn truyền đến đời vua Tự Ðức thì mất chủ quyền, nước ta rơi vào vòng đô hộ của Pháp. Phật Giáo Việt Nam vốn đã suy vi nay lại điêu tàn hơn. Trong bối cảnh đó, KiTô giáo đã du nhập vào Việt Nam và dân tộc Việt Nam lại tiếp nhận thêm một tôn giáo mới. Tuy tinh thần khai phóng dung hợp của Phật Giáo suốt mấy thế kỷ qua không còn được thể hiện trong chính sách quốc gia, văn hóa và xã hội vào thế kỷ XX nhưng Phật Giáo vẫn là tôn giáo chính của dân tộc, đóng vai trò hòa giải giữa các thế lực tranh chấp, góp phần xây dựng tinh thần dân tộc, bảo vệ nền độc lập của quốc gia. Vào khoảng những năm 1920-1930, trong không khí tưng bừng của phong trào chấn hưng Phật Giáo trên thế giới, đặt biệt ở Nhật Bản, Trung Hoa, Ấn Ðộ và Miến Ðiện, một số tăng sĩ và cư sĩ đã phát động phong trào chấn hưng Phật Giáo tại Việt Nam, từ đó đưa đến sự thành lập Tổng Hội Phật Giáo Việt Nam tại miền Bắc vào năm 1934 đặt trụ sở tại chùa Quán Sứ, và xuất bản tạp chí Ðuốc Tuệ. Ở miền Trung, Hội An Nam Phật Học cũng ra mắt tại chùa Từ Ðàm và cho xuất bản tạp chí Viên Âm vào 1934, mở các Phật Học Viện cho tăng chúng tu học như phật học đường Báo Quốc và Kim Sơn, Trúc Lâm và Tây Thiên. Ở Bình Ðịnh có hội Phật Học Bình Ðịnh, ở Ðà Nẵng có hội Phật Học Ðà Thanh, ra tạp chí Tam Bảo. Tại miền Nam, năm 1920, Hội Lục Hòa được thành lập để đoàn kết và vận động phong trào chấn hưng Phật Giáo. Hội nghiên cứu Phật Học Nam Kỳ ra đời, đặt trụ sở tại chùa Linh Sơn; xuất bản tạp chí Từ Bi Âm (1932). Nhờ phong trào chấn hưng Phật Giáo này mà đội ngũ tăng ni được đào tạo qua nhiều trường lớp và phát triển nhiều ở các tỉnh. Chùa chiền được xây dựng khắp nơi, nhất là hệ thống chùa phật học ở các thành thị. Nhiều ngôi chùa ở làng xã được trùng tu và có chư tăng ni trụ trì. Bên cạnh đó, trong thời kỳ này, có nhiều hệ phái, tôn phái phật giáo ra đời, như giáo phái Tăng Già Nguyên Thủy (Theravada, Nam Tông), Khất Sĩ Việt Nam, Thiên Thai Giáo Quán Tông, Phật Giáo Hoa Tông ... Một yêu cầu thống nhất Phật Giáo được đặt ra tại Huế, đưa đến việc thành lập Tổng Hội Phật Giáo Việt Nam đặt trụ sở tại chùa Từ Ðàm Huế, Hội Chủ là Hòa thượng Thích Tịnh Khiết, đây là một tổ chức thống nhất Phật Giáo ba miền Nam, Trung, Bắc, đồng thời vạch ra một con đường dân tộc nhân bản, hướng dẫn bước đi Phật Giáo vào môi trường tư tưởng và văn hóa, tiếp tục xây dựng con người và xã hội Việt Nam. Ðiểm đặc sắc của Phật Giáo Việt Nam trong thế kỷ XX là sự kết hợp của hai giáo phái Nam Tông và Bắc Tông vào năm 1964 để thành lập Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất. Ðến tháng mười một năm 1981, sau sáu năm đất nước thay đổi thể chế, một hội nghị với 165 đại biểu của chín tổ chức giáo hội hệ phái cả nước đã họp tại chùa Quán Sứ Hà Nội đưa đến việc thành lập Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam. Hòa thượng Thích Ðức Nhuận làm Pháp Chủ Hội Ðồng Chứng Minh Trung Ương, Hòa Thượng Thích Trí Thủ làm chủ tịch Hội Ðồng Trị Sự Trung Ương. Giáo hội đặt văn phòng I tại chùa Quán Sứ Hà Nội, văn phòng II tại chùa Xá Lợi (12) thành phố Hồ Chí Minh. III. KẾT LUẬN. Việt Nam và Hàn Quốc có nhiều điểm tương đồng về cơ sở kinh tế xã hội truyền thống với tư cách là nền tảng văn hóa nói chung và đời sống tín ngưỡng nói riêng. Tuy không gần kề về địa lý, nhưng các giá trị văn hóa truyền thống của hai nước, trong đó có văn hóa tín ngưỡng, đều có quá trình hình thành lâu dài trong trong những điều kiện kinh tế, xã hội có nhiều đặc điểm tương đối giống nhau. Vì thế mà ở cả Hàn Quốc và Việt Nam, Phật giáo đã được truyền bá, tồn tại và phát triển trong một khoảng thời gian dài cho tới tận ngày nay. Mỗi quốc gia thì lại mang trên mình những đặc điểm của văn hóa bản địa tiêu biểu và đặc trưng, vì thế mà Phật giáo từ khi được truyền bá vào Hàn Quốc và Việt Nam cho đến nay tồn tại và phát triển được chính là đã có những sự thay đổi cần thiết để hòa nhập và phù hợp với vùng văn hóa bản địa. Tuy Phật giáo du nhập vào Việt Nam và Hàn Quốc phải thay đổi ít nhiều để thích nghi với những đặc trưng văn hóa của quốc gia bản địa. Nhưng bản chất vốn có của học thuyết triết học - tôn giáo vốn có của Phật giáo vẫn còn giữ nguyên và không bị biến đổi. Những sự thay đổi đó chỉ với một mục đích là để nhân dân dễ dàng tiếp nhận Phật giáo và duy trì sự tồn tại của Phật giáo trong đời sống xã hội ở hai quốc gia này.