Tại sao lại coi ngôn ngữ là một loại hệ thống tín hiệu?

  1. Kiến thức chung

Từ khóa: 

kiến thức chung

Một thực thể nào đó được coi là tín hiệu nếu nó thỏa mãn các điều kiện sau : - Phải là cái có bản chất vật chất, kích thích đến giác quan của con người và được giác quan của con người cảm nhận (chủ yếu là thị giác và thính giác). Ví dụ : vật thể, âm thanh, màu sắc,... - Phải đại diện cho hoặc biểu đạt một cái gì đó ngoài bản thân nó. - Mối liên hệ quy ước giữa “tín hiệu” với cái gì mà nó đại diện cho, phải được người ta nhận thức, tức là người ta phải biết “suy diễn” từ nó tới cái gì ngoài nó. - Sự vật/ thực thể đó nằm phải trong một hệ thống tín hiệu nhất định để được xác định tư cách, giá trị tín hiệu của mình cùng với các tín hiệu khác. (Cái đèn đỏ chỉ là tín hiệu giao thông khi nó là thành tố của hệ thống tín hiệu giao thông – gồm ba màu : xanh, đỏ, vàng) Dựa vào những điều kiện trên, ngôn ngữ được coi là một hệ thống tín hiệu, vì : Ví dụ trong tiếng Anh có những đơn vị như : house, people, tree, book, water, fire,... thì trong tiếng Việt cũng có những đơn vị như : nhà, người, cây, sách, nước, lửa,... Đây là các từ, là những đơn vị có mặt âm thanh, mặt biểu hiện là âm thanh, mặt được biểu hiện là những nội dung, ý nghĩa, khái niệm về các sự vật, hiện tượng, thuộc tính, quá trình. Các từ cũng chính là tên gọi của các sự vật, hiện tượng, thuộc tính, quá trình đó. Khi gọi tên các đơn vị ứng với tên gọi của các sự vật, hiện tượng, thuộc tính, quá trình đó, người nghe có thể nhận ra và từ đó liên tưởng tới sự vật, hiện tượng, thuộc tính, quá trình cụ thể nào đó. Các đơn vị trong ngôn ngữ được đặt trong một hệ thống cụ thể, là hệ thống ngôn ngữ.
Trả lời
Một thực thể nào đó được coi là tín hiệu nếu nó thỏa mãn các điều kiện sau : - Phải là cái có bản chất vật chất, kích thích đến giác quan của con người và được giác quan của con người cảm nhận (chủ yếu là thị giác và thính giác). Ví dụ : vật thể, âm thanh, màu sắc,... - Phải đại diện cho hoặc biểu đạt một cái gì đó ngoài bản thân nó. - Mối liên hệ quy ước giữa “tín hiệu” với cái gì mà nó đại diện cho, phải được người ta nhận thức, tức là người ta phải biết “suy diễn” từ nó tới cái gì ngoài nó. - Sự vật/ thực thể đó nằm phải trong một hệ thống tín hiệu nhất định để được xác định tư cách, giá trị tín hiệu của mình cùng với các tín hiệu khác. (Cái đèn đỏ chỉ là tín hiệu giao thông khi nó là thành tố của hệ thống tín hiệu giao thông – gồm ba màu : xanh, đỏ, vàng) Dựa vào những điều kiện trên, ngôn ngữ được coi là một hệ thống tín hiệu, vì : Ví dụ trong tiếng Anh có những đơn vị như : house, people, tree, book, water, fire,... thì trong tiếng Việt cũng có những đơn vị như : nhà, người, cây, sách, nước, lửa,... Đây là các từ, là những đơn vị có mặt âm thanh, mặt biểu hiện là âm thanh, mặt được biểu hiện là những nội dung, ý nghĩa, khái niệm về các sự vật, hiện tượng, thuộc tính, quá trình. Các từ cũng chính là tên gọi của các sự vật, hiện tượng, thuộc tính, quá trình đó. Khi gọi tên các đơn vị ứng với tên gọi của các sự vật, hiện tượng, thuộc tính, quá trình đó, người nghe có thể nhận ra và từ đó liên tưởng tới sự vật, hiện tượng, thuộc tính, quá trình cụ thể nào đó. Các đơn vị trong ngôn ngữ được đặt trong một hệ thống cụ thể, là hệ thống ngôn ngữ.