Tận dụng nguồn nhân lực công tác xã hội thế nào?

  1. Kiến thức chung

Từ khóa: 

kiến thức chung

Việc sử dụng nguồn nhân lực này như thế nào cho hiệu quả hiện là vấn đề cấp thiết. TS. Nguyễn Hải Hữu cho biết: “Ở nước ta hiện nay số cán bộ, nhân viên trực tiếp làm việc ở các cơ sở bảo trợ xã hội, số lao động tự do trực tiếp chăm sóc người già ở các gia đình, bệnh viện theo dạng thuê mướn tạm thời cũng lên tới gần chục nghìn người; số cộng tác viên làm công tác dân số và bảo vệ chăm sóc trẻ em ở các thôn, bản lên tới 162.000 người. Trừ số cán bộ được đào tạo ở trình độ ĐH, CĐ, còn lại hầu hết chưa qua đào tạo cơ bản, họ chỉ được tham gia các lớp tập huấn ngắn hạn nâng cao kỹ năng và hiểu biết về công tác xã hội. Bởi vậy, hiệu quả công tác xã hội còn nhiều hạn chế”. Để khắc phục tình trạng này, trước tiên cần xác định rõ vị trí làm việc và tiêu chuẩn hoá một số chức danh cán bộ làm công tác bảo vệ, chăm sóc trẻ em, cán bộ làm công tác bảo trợ xã hội thuộc khối cơ quan nhà nước từ Trung ương đến địa phương; một số chức danh ở các cơ sở cung cấp dịch vụ công tác xã hội, một số tổ chức đoàn thể xã hội, tổ chức phi chính phủ có liên quan đến cung cấp dịch vụ công tác xã hội phải đạt trình độ đào tạo ĐH hoặc CĐ về công tác xã hội. Phải ưu tiên tuyển dụng những người được đào tạo cơ bản có trình độ đại học, cao đẳng về công tác xã hội vào các cơ quan quản lý nhà nước ở các cấp, ngành, cơ sở cung cấp dịch vụ công tác xã hội, để họ có cơ hội sử dụng những kiến thức đã học vào thực tế công tác. Tiếp theo là tạo khung pháp lý để phát triển các tổ chức cung cấp dịch vụ công tác xã hội kể cả khu vực nhà nước và tư nhân, qua đó thu hút được những người qua đào tạo cơ bản về công tác xã hội vào làm việc, khắc phục tình trạng học một nghề ra làm nghề khác, hạn chế tình trạng lãng phí nguồn nhân lực quý giá này. Việc hành nghề tự do cung cấp dịch vụ công tác xã hội với tư cách là nhà tham vấn, tác nhân phát triển cộng đồng, nhà nghiên cứu khoa học để sử dụng số cán bộ được đào tạo cơ bản này thật sự hiệu quả... cũng cần có hành lang pháp lý rõ ràng.
Trả lời
Việc sử dụng nguồn nhân lực này như thế nào cho hiệu quả hiện là vấn đề cấp thiết. TS. Nguyễn Hải Hữu cho biết: “Ở nước ta hiện nay số cán bộ, nhân viên trực tiếp làm việc ở các cơ sở bảo trợ xã hội, số lao động tự do trực tiếp chăm sóc người già ở các gia đình, bệnh viện theo dạng thuê mướn tạm thời cũng lên tới gần chục nghìn người; số cộng tác viên làm công tác dân số và bảo vệ chăm sóc trẻ em ở các thôn, bản lên tới 162.000 người. Trừ số cán bộ được đào tạo ở trình độ ĐH, CĐ, còn lại hầu hết chưa qua đào tạo cơ bản, họ chỉ được tham gia các lớp tập huấn ngắn hạn nâng cao kỹ năng và hiểu biết về công tác xã hội. Bởi vậy, hiệu quả công tác xã hội còn nhiều hạn chế”. Để khắc phục tình trạng này, trước tiên cần xác định rõ vị trí làm việc và tiêu chuẩn hoá một số chức danh cán bộ làm công tác bảo vệ, chăm sóc trẻ em, cán bộ làm công tác bảo trợ xã hội thuộc khối cơ quan nhà nước từ Trung ương đến địa phương; một số chức danh ở các cơ sở cung cấp dịch vụ công tác xã hội, một số tổ chức đoàn thể xã hội, tổ chức phi chính phủ có liên quan đến cung cấp dịch vụ công tác xã hội phải đạt trình độ đào tạo ĐH hoặc CĐ về công tác xã hội. Phải ưu tiên tuyển dụng những người được đào tạo cơ bản có trình độ đại học, cao đẳng về công tác xã hội vào các cơ quan quản lý nhà nước ở các cấp, ngành, cơ sở cung cấp dịch vụ công tác xã hội, để họ có cơ hội sử dụng những kiến thức đã học vào thực tế công tác. Tiếp theo là tạo khung pháp lý để phát triển các tổ chức cung cấp dịch vụ công tác xã hội kể cả khu vực nhà nước và tư nhân, qua đó thu hút được những người qua đào tạo cơ bản về công tác xã hội vào làm việc, khắc phục tình trạng học một nghề ra làm nghề khác, hạn chế tình trạng lãng phí nguồn nhân lực quý giá này. Việc hành nghề tự do cung cấp dịch vụ công tác xã hội với tư cách là nhà tham vấn, tác nhân phát triển cộng đồng, nhà nghiên cứu khoa học để sử dụng số cán bộ được đào tạo cơ bản này thật sự hiệu quả... cũng cần có hành lang pháp lý rõ ràng.