Vì sao Warren Buffet không đầu tư vào bất kỳ loại tiền điện tử nào (như Bitcoin)?

  1. Đầu tư & Tài chính

Từ khóa: 

đầu tư & tài chính

Vì phong cách đầu tư của Warrant Buffet là đầu tư vào giá trị. Mà ổng ấy không nhìn thấy giá trị từ Bitcoin thì ổng ấy không đầu tư vậy thôi. :D :D Đến Tesla mà ổng còn không đầu tư vào cơ mà nhờ.

Lúc mới học đầu tư Chứng khoán mình cũng có tìm hiểu về phong cách đầu tư của Benjamin Franklin và Warrent Buffet là phong cách đầu tư mà mình theo đuổi nên cũng mạnh dạn chia sẻ với bạn như sau.

Ngay từ ngày đầu lập nghiệp, Buffett đã nói “trong tôi có đến 85% là Benjamin Graham”. Graham là cha đẻ của đầu tư giá trị. Ông đã đưa ra khái niệm về giá trị nội tại – là giá trị cơ bản hợp lý của cổ phiếu dựa trên khả năng sinh lời của nó trong tương lai.

https://cdn.noron.vn/2021/10/28/25088116084402-1635395006_1024.jpg

Dưới đây mình có lưu lại 1 bài viết khá hay của trên trang BWPortal về phong cách đầu tư của Buffet như bên dưới. Bạn sẽ hiểu được tại sao ông ý lại không mặn mà với Coin nhé!

Theo Hagstrom, Buffett có 12 nguyên lý đầu tư. Chúng được phân thành các nhóm gồm: Kinh doanh, quản lý, thước đo tài chính và giá trị.

1. Kinh doanh

Buffett tự giới hạn bản thân một cách cứng rắn không tham gia vào “cuộc đua tranh giành” của thương vụ mà ông có thể phân tích và hiểu rõ. Như Hagstrom viết: thành công trong đầu tư không phải vấn đề ở chỗ bạn biết được bao nhiêu mà là bạn thực tế đến đâu trong việc xác định được cái mà bạn không biết. Buffett xem sự hiểu biết sâu sắc về vận hành kinh doanh này là điều kiện tiên quyết đối với dự báo khả thi của hoạt động kinh doanh trong tương lai; có nghĩa là nếu bạn không hiểu về kinh doanh thì làm sao bạn có thể tiên đoán được hoạt động? Mỗi nguyên lý kinh doanh của Buffett đều hỗ trợ cho mục tiêu xây dựng nên đề án lớn: Đầu tiên hãy nhớ rằng bạn đang phân tích việc kinh doanh không phải là thị trường hay nền kinh tế hay sự ủy mị của nhà đầu tư. Thứ hai là kiên định trong việc tìm kiếm lịch sử hoạt động bởi nó sẽ giúp cải thiện năng lực của bạn. Và thứ ba là phải biết chắc thương vụ có triển vọng về lâu dài hay không.

2. Quản lý

Ba nguyên tắc quản lý của Buffett có liên quan đến việc đánh giá chất lượng quản lý. Có lẽ đây là tác nghiệp phân tích khó nhất của nhà đầu tư. Buffett đòi hỏi “quản lý có hợp lý không?” Cụ thể quản lý sẽ là khôn ngoan khi nó thỏa mãn yêu cầu tái đầu tư lợi nhuận hoặc chia lợi tức của cổ đông. Đây là câu hỏi sâu sắc. Hầu hết các khảo sát cho dù theo nhóm hay bình quân đều cho thấy có tính lịch sử rằng quản lý có xu hướng trở nên tham lam và giữ lại lợi nhuận càng nhiều càng tốt vì theo lẽ tự nhiên họ có xu hướng xây dựng đế chế và tìm kiếm một vị thế hơn là sử dụng dòng vốn theo cách tối đa hóa giá trị của cổ đông. Một nguyên tắc khác đòi hỏi quản lý phải trung thực. Họ có chấp nhận sai lầm không?

Và nguyên tắc quản lý cuối cùng đòi hỏi rằng: quản lý có chịu đựng được những mệnh lệnh hành chính không? Nguyên lý này là quan trọng trong phạm vị rộng, nó bao gồm cả việc tìm kiếm ban quản lý say mê hành động và chống lại việc mù quáng sao chép chiến thuật và chiến lược của đối thủ cạnh tranh. Nếu đọc cuốn sách, nguyên tắc đặc thù này có giá trị một cách khác thường. Nó đòi hỏi sự suy ngẫm và là một trong những điều quan trọng nhất (ví dụ: việc đầu tiên tham gia thị trường, một công ty phải xác định đâu là ranh giới giữa việc sao chép một cách mù quáng chiến thuật của đối thủ cạnh tranh với việc đưa ra một chiến thuật vượt trội?)

3. Thước đo tài chính

Nguyên tắc tài chính không mấy phức tạp. Buffett nhìn vào lợi nhuận ròng trên vốn chủ sở hữu (ROE). Hầu hết các sinh viên tài chính đều hiểu rằng ROE có thể bị nhiễu bởi tỷ số nợ (là tỷ số giữa tổng nợ với vốn chủ sở hữu), cho nên về lý thuyết chỉ số này còn thấp hơn chỉ số tỷ số lợi nhuận trên vốn đầu tư (ROC) theo một số phương diện. ROC theo tôi có nghĩa là giống như lợi nhuận trên tổng tài sản (ROA) hay lợi nhuận trên vốn vay (ROCE) mà ở đó tử số là lợi nhuận được tạo ra từ tất cả các nguồn vốn được cung cấp và mẫu số bao gồm cả vốn chủ sở hữu và vốn vay. Dĩ nhiên, Buffett hiểu rằng thay vì loại bỏ riêng các doanh nghiệp mang nợ thì tốt hơn là xem xét đến một mức nợ thấp hợp lý. Ông cũng tìm kiếm mức lợi nhuận cao ở mức hợp lý tự nhiên.

Hai nguyên tắc tài chính cuối cùng đều có chung cơ sở lý thuyết từ khái niệm Giá trị kinh tế gia tăng. Đầu tiên Buffett xem xét đến cái mà ông gọi là “thu nhập của chủ sở hữu”. Về thực chất đây là thu nhập sẵn có của các cổ đông, về tính kỹ thuật thì nó không liên quan tới thu nhập từ cổ phần. Theo Buffett, nó được định nghĩa là lãi ròng (Net income) cộng thêm phần giá trị khấu hao và phần nợ trả dần (nghĩa là phần giá trị không bao gồm khoản phí liên quan đến tiền) (D&A) trừ đi chi phí vốn đầu tư dài hạn (CAPX) trừ đi chi phí vốn phát sinh cho nhu cầu hoạt động (charge in W/C). Tóm lại: lãi ròng + D&A – CAPX – (charge in W/C). Người theo chủ nghĩa thuần túy sẽ phản đối những điều chỉnh chi tiết nhưng biểu thức này gần với khái niệm EVA trước khi bạn trừ đi phần chi trả cổ tức cho cổ đông. Về cơ bản, với khái niệm “thu nhập chủ sở hữu”, Buffett chỉ ra năng lực công ty trong việc điều hành đồng vốn của cổ đông cũng chính là giới chủ. Nguyên tắc cuối cùng được gọi là “Học thuyết một đồng đô la” (one-dollar premise). Giá trị thị trường trên một đô la được chuyển nhượng vào mỗi đô la thu nhập được giữ lại là gì? Thước đo này rất giống với khái niệm Giá trị thị trường gia tăng (MVA), tỷ số giá trị thị trường trên vốn đầu tư.

4. Giá trị

Nhóm nguyên tắc cuối cùng là Giá trị, theo đó Buffett thiết lập cách làm dựa trên sự dự đoán giá trị thực của một công ty. Một đồng nghiệp kết luận quá trình liên quan mật thiết thiết này như “toán học liên kết”. Buffett dự đoán thu nhập chủ sở hữu trong tương lai sau đó chiết khấu trở lại tới giá trị hiện tại. Nên nhớ rằng nếu bạn áp dụng nguyên tắc khác, sự dự đoán thu nhập tương lai – theo định nghĩa – được thực hiện dễ hơn thông thường. Ví dụ như những khoản thu nhập không đổi định kỳ thì dễ dự đoán hơn.

Buffett cũng đưa ra khái niệm “rào chắn - Moat”, cái được nổi lên như một hệ quả trở thành tập quán thành công trên Morningstar của những công ty được yêu thích nhờ có “rào chắn kinh tế” (economic moat). Rào chắn là “cái đem lại cho công ty một lợi thế rõ rệt hơn đối thủ khác và bảo vệ nó trước những sự tấn công bất ngờ từ sự cạnh tranh”. Một chút ít tính lý thuyết dị giáo có lẽ chỉ xảy ra với nhà hiền triết từ Omaha, ông khấu trừ từ thu nhập được dự tính tới mức không có tỷ lệ rủi ro. Ông thực hiện bằng cách kiên định với nguyên tắc “lợi nhuận an toàn – margin of safety” trong khi áp dụng thận trọng những nguyên tắc khác với hàm ý giảm tới mức tối thiểu rủi ro chứ không có nghĩa thực sự loại bỏ được rủi ro. (Hãy tham khảo công ty nào mà Warren Buffett đang mua và bán? Hãy tham gia vào Coattail Investor, một sản phẩm đăng ký theo chân một số nhà đầu tư tốt nhất thế giới)

Nguyên lý của Buffett tạo thành nền tảng trong đầu tư giá trị, nó có cơ chế mở cho sự thích nghi và diễn giải lại về sau. Nó là một câu hỏi mở tới mức những nguyên tắc này đòi hỏi sự bổ sung bằng tri thức trong tương lai, nơi những quá trình lịch sử diễn ra tương ứng khó tìm thấy hơn, yếu tố vô hình đóng một vai trò quan trọng hơn trong giá trị quyền kinh doanh và sự không rõ ràng về ranh giới giữa các ngành công nghiệp làm cho sự phân tích kinh doanh càng khó khăn hơn.

Hihi :D :D

Trả lời

Vì phong cách đầu tư của Warrant Buffet là đầu tư vào giá trị. Mà ổng ấy không nhìn thấy giá trị từ Bitcoin thì ổng ấy không đầu tư vậy thôi. :D :D Đến Tesla mà ổng còn không đầu tư vào cơ mà nhờ.

Lúc mới học đầu tư Chứng khoán mình cũng có tìm hiểu về phong cách đầu tư của Benjamin Franklin và Warrent Buffet là phong cách đầu tư mà mình theo đuổi nên cũng mạnh dạn chia sẻ với bạn như sau.

Ngay từ ngày đầu lập nghiệp, Buffett đã nói “trong tôi có đến 85% là Benjamin Graham”. Graham là cha đẻ của đầu tư giá trị. Ông đã đưa ra khái niệm về giá trị nội tại – là giá trị cơ bản hợp lý của cổ phiếu dựa trên khả năng sinh lời của nó trong tương lai.

https://cdn.noron.vn/2021/10/28/25088116084402-1635395006_1024.jpg

Dưới đây mình có lưu lại 1 bài viết khá hay của trên trang BWPortal về phong cách đầu tư của Buffet như bên dưới. Bạn sẽ hiểu được tại sao ông ý lại không mặn mà với Coin nhé!

Theo Hagstrom, Buffett có 12 nguyên lý đầu tư. Chúng được phân thành các nhóm gồm: Kinh doanh, quản lý, thước đo tài chính và giá trị.

1. Kinh doanh

Buffett tự giới hạn bản thân một cách cứng rắn không tham gia vào “cuộc đua tranh giành” của thương vụ mà ông có thể phân tích và hiểu rõ. Như Hagstrom viết: thành công trong đầu tư không phải vấn đề ở chỗ bạn biết được bao nhiêu mà là bạn thực tế đến đâu trong việc xác định được cái mà bạn không biết. Buffett xem sự hiểu biết sâu sắc về vận hành kinh doanh này là điều kiện tiên quyết đối với dự báo khả thi của hoạt động kinh doanh trong tương lai; có nghĩa là nếu bạn không hiểu về kinh doanh thì làm sao bạn có thể tiên đoán được hoạt động? Mỗi nguyên lý kinh doanh của Buffett đều hỗ trợ cho mục tiêu xây dựng nên đề án lớn: Đầu tiên hãy nhớ rằng bạn đang phân tích việc kinh doanh không phải là thị trường hay nền kinh tế hay sự ủy mị của nhà đầu tư. Thứ hai là kiên định trong việc tìm kiếm lịch sử hoạt động bởi nó sẽ giúp cải thiện năng lực của bạn. Và thứ ba là phải biết chắc thương vụ có triển vọng về lâu dài hay không.

2. Quản lý

Ba nguyên tắc quản lý của Buffett có liên quan đến việc đánh giá chất lượng quản lý. Có lẽ đây là tác nghiệp phân tích khó nhất của nhà đầu tư. Buffett đòi hỏi “quản lý có hợp lý không?” Cụ thể quản lý sẽ là khôn ngoan khi nó thỏa mãn yêu cầu tái đầu tư lợi nhuận hoặc chia lợi tức của cổ đông. Đây là câu hỏi sâu sắc. Hầu hết các khảo sát cho dù theo nhóm hay bình quân đều cho thấy có tính lịch sử rằng quản lý có xu hướng trở nên tham lam và giữ lại lợi nhuận càng nhiều càng tốt vì theo lẽ tự nhiên họ có xu hướng xây dựng đế chế và tìm kiếm một vị thế hơn là sử dụng dòng vốn theo cách tối đa hóa giá trị của cổ đông. Một nguyên tắc khác đòi hỏi quản lý phải trung thực. Họ có chấp nhận sai lầm không?

Và nguyên tắc quản lý cuối cùng đòi hỏi rằng: quản lý có chịu đựng được những mệnh lệnh hành chính không? Nguyên lý này là quan trọng trong phạm vị rộng, nó bao gồm cả việc tìm kiếm ban quản lý say mê hành động và chống lại việc mù quáng sao chép chiến thuật và chiến lược của đối thủ cạnh tranh. Nếu đọc cuốn sách, nguyên tắc đặc thù này có giá trị một cách khác thường. Nó đòi hỏi sự suy ngẫm và là một trong những điều quan trọng nhất (ví dụ: việc đầu tiên tham gia thị trường, một công ty phải xác định đâu là ranh giới giữa việc sao chép một cách mù quáng chiến thuật của đối thủ cạnh tranh với việc đưa ra một chiến thuật vượt trội?)

3. Thước đo tài chính

Nguyên tắc tài chính không mấy phức tạp. Buffett nhìn vào lợi nhuận ròng trên vốn chủ sở hữu (ROE). Hầu hết các sinh viên tài chính đều hiểu rằng ROE có thể bị nhiễu bởi tỷ số nợ (là tỷ số giữa tổng nợ với vốn chủ sở hữu), cho nên về lý thuyết chỉ số này còn thấp hơn chỉ số tỷ số lợi nhuận trên vốn đầu tư (ROC) theo một số phương diện. ROC theo tôi có nghĩa là giống như lợi nhuận trên tổng tài sản (ROA) hay lợi nhuận trên vốn vay (ROCE) mà ở đó tử số là lợi nhuận được tạo ra từ tất cả các nguồn vốn được cung cấp và mẫu số bao gồm cả vốn chủ sở hữu và vốn vay. Dĩ nhiên, Buffett hiểu rằng thay vì loại bỏ riêng các doanh nghiệp mang nợ thì tốt hơn là xem xét đến một mức nợ thấp hợp lý. Ông cũng tìm kiếm mức lợi nhuận cao ở mức hợp lý tự nhiên.

Hai nguyên tắc tài chính cuối cùng đều có chung cơ sở lý thuyết từ khái niệm Giá trị kinh tế gia tăng. Đầu tiên Buffett xem xét đến cái mà ông gọi là “thu nhập của chủ sở hữu”. Về thực chất đây là thu nhập sẵn có của các cổ đông, về tính kỹ thuật thì nó không liên quan tới thu nhập từ cổ phần. Theo Buffett, nó được định nghĩa là lãi ròng (Net income) cộng thêm phần giá trị khấu hao và phần nợ trả dần (nghĩa là phần giá trị không bao gồm khoản phí liên quan đến tiền) (D&A) trừ đi chi phí vốn đầu tư dài hạn (CAPX) trừ đi chi phí vốn phát sinh cho nhu cầu hoạt động (charge in W/C). Tóm lại: lãi ròng + D&A – CAPX – (charge in W/C). Người theo chủ nghĩa thuần túy sẽ phản đối những điều chỉnh chi tiết nhưng biểu thức này gần với khái niệm EVA trước khi bạn trừ đi phần chi trả cổ tức cho cổ đông. Về cơ bản, với khái niệm “thu nhập chủ sở hữu”, Buffett chỉ ra năng lực công ty trong việc điều hành đồng vốn của cổ đông cũng chính là giới chủ. Nguyên tắc cuối cùng được gọi là “Học thuyết một đồng đô la” (one-dollar premise). Giá trị thị trường trên một đô la được chuyển nhượng vào mỗi đô la thu nhập được giữ lại là gì? Thước đo này rất giống với khái niệm Giá trị thị trường gia tăng (MVA), tỷ số giá trị thị trường trên vốn đầu tư.

4. Giá trị

Nhóm nguyên tắc cuối cùng là Giá trị, theo đó Buffett thiết lập cách làm dựa trên sự dự đoán giá trị thực của một công ty. Một đồng nghiệp kết luận quá trình liên quan mật thiết thiết này như “toán học liên kết”. Buffett dự đoán thu nhập chủ sở hữu trong tương lai sau đó chiết khấu trở lại tới giá trị hiện tại. Nên nhớ rằng nếu bạn áp dụng nguyên tắc khác, sự dự đoán thu nhập tương lai – theo định nghĩa – được thực hiện dễ hơn thông thường. Ví dụ như những khoản thu nhập không đổi định kỳ thì dễ dự đoán hơn.

Buffett cũng đưa ra khái niệm “rào chắn - Moat”, cái được nổi lên như một hệ quả trở thành tập quán thành công trên Morningstar của những công ty được yêu thích nhờ có “rào chắn kinh tế” (economic moat). Rào chắn là “cái đem lại cho công ty một lợi thế rõ rệt hơn đối thủ khác và bảo vệ nó trước những sự tấn công bất ngờ từ sự cạnh tranh”. Một chút ít tính lý thuyết dị giáo có lẽ chỉ xảy ra với nhà hiền triết từ Omaha, ông khấu trừ từ thu nhập được dự tính tới mức không có tỷ lệ rủi ro. Ông thực hiện bằng cách kiên định với nguyên tắc “lợi nhuận an toàn – margin of safety” trong khi áp dụng thận trọng những nguyên tắc khác với hàm ý giảm tới mức tối thiểu rủi ro chứ không có nghĩa thực sự loại bỏ được rủi ro. (Hãy tham khảo công ty nào mà Warren Buffett đang mua và bán? Hãy tham gia vào Coattail Investor, một sản phẩm đăng ký theo chân một số nhà đầu tư tốt nhất thế giới)

Nguyên lý của Buffett tạo thành nền tảng trong đầu tư giá trị, nó có cơ chế mở cho sự thích nghi và diễn giải lại về sau. Nó là một câu hỏi mở tới mức những nguyên tắc này đòi hỏi sự bổ sung bằng tri thức trong tương lai, nơi những quá trình lịch sử diễn ra tương ứng khó tìm thấy hơn, yếu tố vô hình đóng một vai trò quan trọng hơn trong giá trị quyền kinh doanh và sự không rõ ràng về ranh giới giữa các ngành công nghiệp làm cho sự phân tích kinh doanh càng khó khăn hơn.

Hihi :D :D