Lê Thánh Tông

  1. Lịch sử

Thời kỳ của ông được đánh dấu sự hưng thịnh của nhà Hậu Lê nói riêng và chế độ phong kiến Việt Nam nói chung với tên gọi là Hồng Đức Thịnh Thế, một trong bốn thời kỳ hưng thịnh nhất của triều đại phong kiến Việt Nam.

https://cdn.noron.vn/2021/06/28/60042224014923316-1624850121.jpg

Lê Thánh Tông (chữ Hán: 黎聖宗 25 tháng 8 năm 1442 – 3 tháng 3 năm 1497) là hoàng đế thứ năm của nhà Hậu Lê trong lịch sử Việt Nam. Ông trị vì từ ngày 26 tháng 6 năm 1460 đến khi qua đời năm 1497, tổng cộng 37 năm, là vị hoàng đế trị vì lâu nhất thời Hậu Lê – giai đoạn Lê sơ trong lịch sử Việt Nam

Vào ngày 3/3/1497, hoàng đế Lê Thánh Tông qua đời. Nói đến ông, không thể quên công lao chia liên minh Chiêm Thành thành 3 nước, mở đường cho các chúa Nguyễn "mang gươm đi mở cõi".

Khi nói đến Miền Nam Việt Nam, đa số mọi người đều nghĩ đến công lao của Nhà Nguyễn, khởi đầu là Chúa Tiên – Nguyễn Hoàng trong hành trình mang gươm đi mở cõi của mình. Tuy nhiên, để Nguyễn Hoàng có thế xin Trịnh Kiểm vào trấn giữ đất Thuận Hóa vào thời điểm đó (và qua đó dựng nghiệp ở Miền Nam) thì có nghĩa là trước đó vùng đất này đã được nhập vào Đại Việt rồi và thế lực Chiêm Thành đã hầu như không còn gì nữa.

Trong lịch sử đầy hào hùng của người Việt, ngoài việc phải luôn luôn chống chọi lại với người láng giềng phương bắc thì Chiêm Thành luôn là mối đe dọa, là cái gai trong mắt của các triều đại. Lê Hoàn sau khi thay nhà Đinh nắm quyền đã từng đào sông (đến nay vẫn còn ở Thanh Hóa, Nghệ An – song Nhà Lê)) và làm đường nối Châu Hoan, Châu Ái với Châu Ô, Châu Lý để đem quân đi đánh Người Chiêm. Thời Nhà Lý, Nguyên Phi Ỷ Lan nhờ có công trông nom triều chính cho Vua Lý Thánh Tông mấy lần đi đánh Chiêm Thành mà ngày nay tiếng tốt còn để lại khắp nơi.

Nhà Trần chắc có lẽ là triều đại có nhiều duyên nợ nhất với Chiêm Thành. Từ việc phải gả Huyền Trân Công Chúa cho vua Chế Mân của thành Đồ Bàn (sau đó sai Trần Kim Chung đi cướp về khi Chế Mân chết) đến việc vua Trần Duệ Tông tử trận khi đi đánh Chiêm Thành (bị trúng kế giả hàng của vua Chiêm) rồi thì việc Vua tôi ôm nhau khóc lóc khi tiễn Trần Khát Chân ra trận chống lại Chế Bồng Nga, trong bối cảnh cứ vài ba năm quân Chiêm lại vào cướp Thăng Long một lần (rất may cho Đại Việt là trong trận chiến với Trần Khát Chân đó, Chế Bồng Nga đã bị một người hầu phản bội và bị hỏa lực của Nhà Trần bắn chết).

Thấm nhuần các bài học của tiiền nhân, Lê Thánh Tông sau khi cũng cố được vị thế của mình, đã bắt tay ngay vào công việc chuẩn bị chinh phạt Chiêm Thành với mục đích rất rõ ràng là thôn tính quốc gia này để trừ hậu họa cho đời sau. Năm 1471, Hoàng Đế Lê Thánh Tông đã mang theo khoảng 200.000 quân (một lực lượng hùng hậu) tiến vào thành Đồ Bàn và bắt vua Chiêm Thành cùng hơn 30.000 người Chiêm và hơn 1500 cung nữ đem về Đại Việt. Các cung nữ Chiêm sau đó được bố trí sống xung quanh Hồ Tây còn đa số tù bình Chiêm được sinh sống xung quanh kinh thành thuộc địa phận Hà Tây.

Có lẽ thế nên ngày nay nhiều người cho rằng ở những vùng này bây giờ vẫn còn có đôi nét văn hóa Chiêm Thành như trước nhà trồng các hàng cau thẳng hay tiếng nói khác các vùng còn lại ở Miền Bắc? Để làm yếu đi thế lực của Chiêm Thành, sau khi chấp nhận sự đầu hàng của vua Chiêm mới, Lê Thánh Tông đã chia phần còn lại của đế chế này (từ đèo Cả trở vào) thành 3 nước nhỏ, phân tán họ và dần dần với sức ép của người Việt, dân tộc Chăm hùng mạnh một thời phải lùi dần lên vùng cao nguyên, yếu dần về kỹ năng lẫn quy mô và cuối cùng tàn lụi vào thời các Chúa Nguyễn.

Vùng đất chiếm được sau cuộc chiến năm 1471 này được đổi tên thành Thừa tuyên Quảng Nam và Vệ Thăng Hoa và là Thừa tuyên (Châu) thứ 13 trong Thiên Hạ Bản Đồ của Nhà Lê. Như vậy có thể nói, chính cuộc Nam chinh của Lê Thánh Tông là cột mốc (như tấm bia Ngài cho dựng ở Đèo Cả) chấm hết cho Đế chế Chiêm Thành và mở ra một Việt Nam rộng lớn hơn về quy mô cũng như ổn định hơn do không phải lo canh chừng mặt nam nữa.

Ở Thạch Bi Sơn còn gọi là Đá Bia, dân gian tương truyền là Núi Ông, thuộc dãy Đại Lãnh, cao 706m, nay thuộc địa phận xã Hòa Xuân Nam, huyện Đông Hòa tỉnh Phú Yên. Sự kiện lịch sử đầu tiên là cuộc Nam tiến của vua Lê Thánh Tông vào năm 1470, tiến quân đến tận chân núi Đèo Cả (Phú Yên) và sai lính khắc bia để làm ranh giới giữa Đại Việt và Chiêm Thành. Để tưởng nhớ công ơn của vị vua này, nhân dân Phú Yên đã lập đền thờ tại thôn Long Uyên (Tuy An) với hai câu đối:

Giang sơn khai tác hà niên, phụ lão tương truyền Hồng Đức sự

Trở đậu hinh hương thử địa, thanh linh trường đối Thạch Bi cao

Nghĩa:

Giang sơn khai thác năm nào, phụ lão còn truyền công Hồng Đức

Lễ kính hương thơm đất ấy, danh thiêng muôn thuở ngọn Đá Bia

Theo các nguồn sử liệu, ngoài chinh phạt Chiêm Thành ra, Hoàng Đế Lê Thánh Tông còn một lần cho quân chinh Tây đánh Lan Xang (Luang Prabang bây giờ), quân Đại việt đã vượt qua cả sông Mekong vào tận biên giới Miến Điện khiến mọi người khiếp sợ. Một lần Ngài xa giá thân chinh đem quân đi đánh Bồn Man (thuộc tỉnh Xiêng Khoảng, Lào ngày nay) khiến quân nổi loạn chỉ nghe nghe tên Ngài đã bỏ chạy hết trước khi quân Đại Việt tới nơi.

Theo đánh giá của người Phương Tây trong một vài nghiên cứu, thì vào thời Lê Thánh Tông, trình độ về thuốc súng của quân Đại Việt đã có thể xét vào dạng đỉnh cao của khu vực. Kết hợpg giữa tài năng quân sự và sự vững mạnh về kinh tế, đã giúp cho vua Lê Thánh Tông đánh đâu thắng đấy và khiến cho Nhà Minh dù không hài lòng nhưng cũng chỉ trách cứ qua các sứ thần chứ không làm gì được. Khi Đại Việt chiếm Chiêm Thành, vua Minh đã nhiều lần đòi Lê Thánh Tông trả lại đất cho người Chiêm nhưng Vua Lê không trả.

Lê Thánh Tông còn thể hiện tinh thần độc lập rất ràng của mình khi trách sử gia Ngô Sĩ Liên: “Ta mới coi chính sự, sửa mới đức tính, ngươi bảo nước ta là hàng phiên bang của Trung Quốc thời xưa, thế là người theo đường chết, mang lòng không vua”. Nhà Vua còn cho chúng ta thấy được tầm nhìn vượt xa các ông vua thời phong kiến khi thường xuyên nhắc nhở con cháu và triều thần rằng: “Pháp luật là phép tắc chung của Nhà nước, ta và các người phải cùng tuân theo” – Đây chính là tinh thần “Thượng tôn pháp luật” mà đến tận ngày này chúng ta vẫn đang cố gắng tạo dựng.

Lịch sử là lịch sử, là những thứ chúng ta không thể thay đổi được, nhưng lại có thể là tấm gương để chúng ta nhìn vào đó, gạn lọc những giá trị tốt đẹp của Tiền nhân để phát huy đồng thời rút kinh nghiệm từ các sai làm trong quá khứ để rút ngắn quãng đường phát triển phía trước. Tuy không có ý định cổ xúy cho chủ nghĩa bành trướng hay thực dân trong việc phát động các cuộc chiến xâm chiếm láng giềng vì ngày nay bối cảnh đã khác.

Cái mà chúng ta có thể học từ sự nghiệp lẫy lừng trong mở nước của Hoàng Đế Lê Thánh Tông chính là trong bối cảnh còn nhiều nguy cơ và đe dọa thì việc phát triển kinh tế, văn hóa là chưa đủ mà cần phải phát huy sức mạnh nội lực của đất nước để xây dựng một đất nước hùng mạnh về Quân sự, khôn khéo về ngoại giao, đa dạng về văn hóa để sẵn sàng “Tiên hạ thủ vi cường” trong bất cứ hoàn cảnh nào nhằm loại bỏ các nguy cơ tiềm tàng, giúp Việt Nam ngày nay có thể không hổ thẹn là con cháu của hiền nhân.

Nguồn:

http://redsvn.net/le-thanh-tong-vi-hoang-de-mo-coi/

Từ khóa: 

lịch sử

Khi được học trên trường đây là một trong số ít ông vua mà mình nhớ nhất

Trả lời

Khi được học trên trường đây là một trong số ít ông vua mà mình nhớ nhất